Soạn bài Hai cây phong (trích Người thầy dầu tiên)

  • Hai cây phong (trích Người thầy dầu tiên) trang 1
  • Hai cây phong (trích Người thầy dầu tiên) trang 2
  • Hai cây phong (trích Người thầy dầu tiên) trang 3
  • Hai cây phong (trích Người thầy dầu tiên) trang 4
  • Hai cây phong (trích Người thầy dầu tiên) trang 5
  • Hai cây phong (trích Người thầy dầu tiên) trang 6
HAI CÂY PHONG
(Trích truyện Người thầy đầu tiên của Ai-ma-tổp)
KIẾN THỨC Cơ BẢN
A. Giới thiệu :
Vài nét về tác giả :
Ai-ma-tôp sinh năm 1928, ở làng Sê-ke-rơ (Cộng hoà Kư-rơ-gư-xtan). Hoạt động văn học của ông bắt đầu từ năm 1952. Tác phẩm đầu tiên khiến Ai-ma-tôp nổi tiếng là tập Chuyện núi dồi và thảo nguyên. Sau đó là các tác phẩm : Cánh đồng mẹ, Vĩnh biệt Gun-xa-rư, Con tàu trắng... Đề tài chủ yếu trong các truyện ngắn của Ai-ma-tôp là cuộc sống khắc nghiệt nhưng cũng đầy chất lãng mạn của người dân vùng đồi núi Kư-rơ-gư-xtan ; tình yêu ; tình bạn ; tinh thần dũng cảm vượt qua những thử thách, hi sinh thời chiến tranh ; thái độ tích cực đấu tranh của tầng lớp thanh niên, trước hết là nữ thanh niên để thoát khỏi sự ràng buộc của những tập tục lạc hậu.
Truyện vừa Người thầy dầu tiên (1957) của Ai-ma-tôp viết về những đổi thay to lớn trong cuộc sổhg của người dân vùng thảo nguyên Ka-dắc-xtan dưới ánh sáng của Cách mạng. Vào giữa những năm 20 của thế kỉ XX, vùng đất này còn rất lạc hậu, tư tưởng phong kiến gia trưởng còn nặng nề, phụ nữ bị coi thường, trẻ mồ côi bị rẻ rúng. Cô bé An-tư-nai, người Kiếc-ghi-di-a, mồ côi sông trong gia đình chú thím ở làng Ku-ku-rêu, chẳng được học hành và phải chịu sự giám sát, sai khiến hà khắc của bà thím. Năm 1924, anh chiến sĩ Hồng quân Đuy-sen được Đoàn Thanh niên Cộng sản cử về làng mở trường dạy học, đã kịp thời cứu giúp, cho An-tư-nai đến trường học. Đuy-sen đem hết nhiệt tình để dạy dỗ cho đám trẻ. Khôi lượng kiến thức mà Đuy-sen truyền đạt cho học sinh dẫu sao cũng chỉ có hạn bởi trình độ học vấn của anh, nhưng niềm ước mơ vươn xa, bay cao trong cuộc đời rộng lớn, ý thức về nhân cách của mỗi cá nhân chính là những điều vô giá anh mang lại cho các em. Bà thím ác nghiệt ép gả bán An-tư-nai làm vợ lẽ cho một gã địa chủ. Một lần nữa, An-tư-nai được thầy Đuy-sen giải thoát, được lên tỉnh học, rồi đi học tiếp ở Mat-xcơ-va, sau trở thành nữ viện sĩ An-tư-nai Xu-laĩ-ma-nô-va nổi tiếng. Còn thầy Đuy-sen bây giờ đã già, làm nghề đưa thư. Câu chuyện về Đuy-sen - người thầy đầu tiên - chỉ được lớp trẻ biết đến nhờ kí ức của chính An-tư-nai.
Khi An-tư-nai còn đang học ở trường làng, có hôm thầy Đuy-sen mang về trường hai cây phong non và bảo em : “Hai cây phong này thầy mang về cho em đây. Chúng ta sẽ cùng trồng. Và trong khi chúng lớn lên, ngày một thêm sức sông, em sẽ trưởng thành, em sẽ là một người tốt... Em bây giờ trẻ măng như một thân cây non, như đôi cây phong nhỏ này...”.
Văn bản Hai cây phong là phần đầu truyện Người thầy đầu tiên.
B. Đọc - Hiểu văn bản :
Văn bản có hai mạch kể phân biệt lồng vào nhau. Căn cứ vào đại từ nhân xưng (Íôí, chúng tôi) của người kể chuyện, có thể nhận ra hai mạch kể :
+ Người kể chuyện xưng tôi ở hai phần :
Từ đầu bài văn đến “...chiếc gương thần xanh” ;
Phần cuối bài vãn (từ “Tôi lắng nghe tiếng hai cây phong...” đến hết).
+ Người kể chuyện xưng chúng tôi ở phần giữa (từ “Vào năm học cuối cùng...” đến “...sau chân trời xa thẳm biêng biếc kia”).
Trong mạch kể xưng tôi, tôi là người kể chuyện - một họa sĩ, người làng Ku-ku-rêu.
Trong mạch kể xưng chúng tôi, vẫn là lời kể của nhân vật tôi, nhưng nhân vật tôi đang đại diện cho đám bạn học cũ - “bọn con trai” ngày trước. Hồi ấy, nhân vật tôi là một đứa trẻ trong bọn.
Trong hai mạch kể nói trên, mạch kể của người kể chuyện xưng tôi quan trọng hơn bởi mạch kể này chiếm độ dài của văn bản nhiều hơn và bao bọc cả mạch kể kia. Hơn nữa, ngay trong mạch kể xưng chúng tôi, vẫn có nhân vật tôi trong đó.
Trong mạch kể của người kể chuyện xưng chúng tôi, có hai hình ảnh : hình ảnh hai cây phong trên đồi với những trò chợi của đám học trò con trai, và hình ảnh “thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng” mở ra trước mắt bọn trẻ khi chúng ngồi trên những cành cây cao ngất.
Hình ảnh hai cây phong để lại cho người kể chuyện ấn tượng khó quên về một thời thơ ấu với những trò chơi nghịch ngợm. Có thể nói rằng hai cây phong đã được người kể chuyện là một họa sĩ miêu tả bằng ngòi bút đậm chất hội họa. Chỉ vài câu văn kể xen lẫn tả, chỉ vài ba nét bút phác họa, đã hiện lên thật sinh động hình ảnh hai cây phong khổng lồ, xù xì những mắt mấu, các cành cây cao ngất, cao đến ngang tầm cánh chim bay, với bóng râm mát rượi, với động tác nghiêng ngả đung đưa như muốn mời chào. Phía trên của bức tranh được tô điểm thêm bởi hình ảnh hàng đàn chim chao đi chao lại trên đầu.
Tuy nhiên, cái thực sự thu hút người kể chuyện cùng bọn trẻ và làm cho chúng ngây ngất chính là “thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng”. Vào thời điểm nhân vật tôi kể lại câu chuyện, dòng thời gian đã đưa tuổi thơ vào quá khứ, nhưng cảm xúc say mê ngây ngất khi được nhìn cái thế giới diệu kì ấy vẫn còn tươi nguyên. Ngòi bút đậm chất hội họa lại tung hoành để tả bức tranh thiên nhiên được mở ra từ một điểm nhìn trên tầm cao ngang tầm cánh chim bay. Điểm nhìn ấy cho phép bao quát cả một vùng thiên nhiên rộng lớn với cảnh thảo nguyên hoang vu mất hút trong làn sương mờ đục, với những vùng đất, những dòng sông lấp lánh tận chân trời như những sợi chỉ bạc mỏng manh, với chân trời xa thẳm biêng biếc... Ngòi bút tả cảnh đã vận dụng những yếu tố của hội họa như không gian, đường nét, sắc màu, những khoảng sáng-tối, đậm-nhạt... để làm hiện lên vẻ đẹp bí ẩn mà đầy sức quyến rũ của vùng thảo nguyên. Những so sánh tương phản (chuồng ngựa của nông trang - tòa nhà rộng lớn nhất trên thế gian - chỉ như căn nhà xép bình thường ; những dòng sông như những sợi chỉ) làm nổi bật không gian bao la của cảnh vật.
Trong mạch kể của người kể chuyên xưng tôi, hai cây phong chiếm vị trí trung tâm và gây xúc động sâu sắc cho người kể chuyện.
Phần đầu của văn bản vừa kể vừa tả, tập trung thể hiện những ấn tượng sâu đậm và tình cảm gắn bó tha thiết của người kể chuyện với hai cây phong của làng quê mình.
Phần sau của văn bản vừa thể hiện cảm xúc, vừa bộc lộ những suy tư của người kể chuyện về hai cây phong.
Hai phần này tạo nên một mạch kể choán gần hết độ dài của văn bản. Điều đó chứng tỏ rằng hai cây phong có một vị trí hết sức quan trọng trong tâm hồn nhân vật tôi. Có lẽ vì một phần là do hai cây phong ấy gắn bó với những kỉ niệm đẹp của tuổi học trò xa xưa : “Tuổi trẻ của tôi đã để lại nơi ấy, bên cạnh chúng như một mảnh vỡ của chiếc gương thần xanh...”. Nhưng nguyên nhân sâu xa hơn là ở chỗ hai cây phong là nhân chứng của câu chuyện vô cùng xúc động về người thầy đầu tiên Đuy-sen và cô bé An-tư-nai gần bón mươi năm về trước mà người kể chuyện gần đây mới được biết. Chính tay thầy Đuy-sen đã đem hai cây phong về và cùng với cô bé An-tư- nai trồng trên đồi cao. Thầy đã gửi gắm ở hai cây phong non ước mơ, hi vọng những đứa bé nghèo khổ, thất học như An-tư-nai sau này sẽ trưởng thành, ngày càng được mở mang kiến thức và trở thành những con người hữu ích.
Trong mạch kể này, hai cây phong vẫn được miêu tả qua con mắt nhìn của một họa sĩ và hiện lên hết sức sông động, như hai con người : “ban ngày hay ban đêm, chúng cũng vẫn nghiêng ngả thân cây, lay động lá cành... Và khi mây đen kéo đến cùng với bão dông, xô gãy cành, tỉa trụi lá, hai cây phong nghiêng ngả tấm thân dẻo dai và reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực”. Đặc biệt, người kể chuyện có ấn tượng rất đậm về những âm thanh của hai cây phong : “chúng có tiếng nói riêng và hẳn phải có một tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu”, “không ngớt tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác nhau. Có khi tưởng chừng như một làn sóng thủy triều dâng lên vỗ vào bãi cát, có khi lại nghe như một tiếng thì thầm thiết tha nồng thấm chuyền qua lá cành như một đốm lửa vô hình, có khi hai cây phong bỗng im bặt một thoáng, rồi khắp lá cành lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào”... Như vậy, hai cây phong được miêu tả không chỉ thông qua sự quan sát mà còn bằng cả trí tưởng tượng và tâm hồn
của người nghệ sĩ. Chính vì thế nên dẫu có lúc không nhìn thấy hai cây phong nhưng nhân vật tôi “bao giờ cũng cảm biết được chúng”, c. Tổng kết :
Trong đoạn trích truyện Người thầy đầu tiên của Ai-ma-tốp, hai cây phong được miêu tả hết sức sinh động bằng ngòi bút dậm chất hội họa. Người kể chuyện truyền cho chúng ta tình yêu quê hương da diết và lòng xúc động đặc biệt vì đấy là hai cây phong gắn với câu chuyện về thầy Đuy-sen, người đã vun trồng ước mơ, hi vọng cho những học trò nhỏ của mình.
ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề : Hai cây phong - hình ảnh thân thuộc của quê hương đã được cảm nhận bằng tất cả rung động trong trẻo nhất của tuổi thơ. Hãy phân tích vẻ đẹp. ấy qua tâm hồn của nhân vật “tôi” - người hoạ sĩ.
BÀI VIẾT GỢI ý
Truyện Người thầy đầu tiên của nhà văn Ai-ma-tốp đã đưa chúng ta về với làng nhỏ Ku-ku-rêu của nước cộng hoà Kư-rơ-gư-xtan thuộc Liên Xô (cũ). Câu chuyện về người chiến sĩ Hồng quân, đoàn viên thanh niên cộng sản Đuy-sen - người thầy đầu tiên đã trồng hai cây phong nhỏ cùng cô bé An-tư-nai thuở trước. Bôn chục năm sau, cô bé đã là một viện sĩ danh tiếng, còn Hai cây phong đã trở thành một phần không thể thiếu trong kí ức làng quê của biết bao thế hệ dân làng Ku-ku-rêu.
Kỉ niệm gắn bó với hai cây phong được kể lại theo hai mạch dẫn lồng vào nhau : mạch dẫn chuyện trực tiếp của nhân vật “tôi” - một họa sĩ đã lớn lên từ chính mảnh đất này và mạch kỉ niệm của cả một thế hệ “chúng tôi”. Kí ức thật đậm nét của tuổi thơ đã khiến cho người họa sĩ - nhân vật “tôi” đã tái hiện lại thật đẹp và xúc động hình ảnh hai cây phong - biểu tượng của quê hương, một mảnh hồn làng sông động.
Bắt đầu của những kí ức về làng qv.ê là lời dẫn chuyện đưa người đọc trở về một nơi nằm ven chân núi, trển một cao nguyên rộng, có những khe nước ào ào từ nhiều ngách đá đổ xuống. Ku-ku-rêu đã hiện ra với tất cả vẻ hoang í I của thiên nhiên với thung lũng, thảo nguyên, rặng núi. Hai cây phong nông phải là món quà của tự nhiên nhưng đã từ rất lâu, những đứa trẻ đã )iết chúng từ thuở bắt đầu biết mình. Để cũng rất tự nhiên, hình ảnh hai cây phong đã trở thành của riêng làng Ku-ku-rêu: “chúng luôn hiện ra trước mắt hệt như những ngọn hải đăng đặt trên núi”, trở thành mốc định hướng cho mọi người tìm đến. Riêng đối với “tôi”, “mỗi lần về quê, khi xuống xe lửa đi ^ua thảo nguyên về làng, tôi đều coi bổn phận đầu tiên là từ xa đưa mắt 
tìm liai cây phong thân thuộc ấy. Anh đã dành tình cảm đặc biệt với hai cây phong như với những người bạn, nhìn bằng cặp mắt chan chứa tình cảm yêu thương, nên dù khó nhìn đến mấy, anh bao giờ củng cảm biết được chúng, lúc nào củng nhìn rõ. Hai cây phong đã trở thành một phần tâm hồn của anh, chi phôi cả niềm vui, nỗi buồn của người hoạ sĩ.
Bằng tình yêu ấy, anh đã tạo nên một bức tranh thật sinh động, đẹp đẽ. Một bức tranh ngân 'nga cả những giai điệu “tiếng lá reo cho đến khi say sứa ngây ngất”. Đoạn văn miêu tả hình ảnh hai cây phong đẹp như một bài thơ về một loài cây “có tiếng nói riêng và hẳn phải có một tâm hồn riêng, chan chứa những lời ca êm dịu”. Có lẽ chính tình yêu quê hương của người hoạ sĩ đã đem đến cảm giác choáng ngợp say sưa ấy : “Dù ta tới đây vào lúc nào, ban ngày hay ban đêm, chúng cũng vẫn nghiêng ngả thân cây, lay động lá cành, không ngớt tiếng rì rào theo nhiều cung bậc khác nhau. Có khi tưởng chừng như một làn sóng thủy triều dâng lèn vỗ vào bãi cát, có khỉ lại nghe như một tiếng thì thầm thiết tha nồng thắm chuyển qua lá cành như một đốm lửa vô hình, có khi hai cây phong bỗng im bặt một thoáng, rồi khắp lá cành lại cất tiếng thở dài một lượt như thương tiếc người nào”. Ngay cả khi thời tiết thay đổi khắc nghiệt, hai cây phong ây vẫn như một con người bền bỉ kiên cường đốì chọi với sức mạnh tàn phá của bão dông, “nghiêng ngả tấm thân dẻo dai và reo vù vù như một ngọn lửa bốc cháy rừng rực”. Cảm nhận của tuổi thơ đã được người họa sĩ ấy trân trọng gìn giữ, ngay cả khi khám phá ra điều bí ẩn về hai cây phong bằng những giải thích chính xác khoa học thì : “việc khám phá ra chân lí giản đơn ấy vẫn không làm tôi vỡ mộng xưa, không làm tôi bỏ mất cách cảm thụ của tuổi tha mà tôi còn giữ đến tận ngày nay”. Bởi lẽ cây phong ấy đã gắn với cả một thời tươi đẹp : “Tuổi trẻ của tôi đã để lại nơi ẩy, bên cạnh chúng như một mảnh vỡ của chiếc gương thần xanh...”. Hình ảnh thời ấu thơ đã tạo thành không gian cổ tích rất riêng, phải chăng chính từ tình yêu và sự gắn bó với hai cây phong, đã làm cậu bé năm xưa lớn lên trở thành họa sĩ với mong muốn vẽ lại linh hồn nồng thắm của làng quê ?
Hai cây phong ấy còn là kỉ niệm chung của chúng tôi - bọn con trai tinh nghịch ở làng Ku-ku-rêu, những người bạn cùng trang lứa của người họa sĩ. Đó là tất cả những ngày tháng được vui chơi, chạy nhảy giữa núi đồi rộng lớn, trong bóng râm mát rượi và tiếng lá xào xạc dịu hiền của hai cây phong. Đẹp làm sao khoảnh khắc những cậu bé ấy được nâng lên cao từ những cành cao ngất, cao đến ngang tầm chim bay, một thế giới khác đã được mở ra, vượt ra khỏi giới hạn của làng quê Ku-ku-rêu nhỏ bé, “như có một phép thần thông nào vụt mở ra trước mắt. chúng tôi cả một thế giới đẹp đẽ vô ngần của không gian bao la và ánh sáng”. Hai cây phong trở thành bệ đỡ, nâng cánh ước mơ cho những đứa trẻ, mở tầm nhận thức về một thế giới đầy những điều mới lạ cần khám phá, hướng về “những miền đất bí ẩn đầy sức quyến rũ lẩn sau chân trời xa thẳm biêng biếc kia”. Cũng như bạn bè của mình, 73