Soạn bài Hịch tướng sĩ

  • Hịch tướng sĩ trang 1
  • Hịch tướng sĩ trang 2
  • Hịch tướng sĩ trang 3
  • Hịch tướng sĩ trang 4
  • Hịch tướng sĩ trang 5
  • Hịch tướng sĩ trang 6
  • Hịch tướng sĩ trang 7
  • Hịch tướng sĩ trang 8
  • Hịch tướng sĩ trang 9
  • Hịch tướng sĩ trang 10
  • Hịch tướng sĩ trang 11
HỊCH TƯỚNG SĨ
(Trần Quốc Tuấn)
I. KIẾN THỨC Cơ BẢN
Giới thiệu :
Vài nét về tác giả :
Trần Quô'c Tuấn (1231 ? - 1300), là con của An Sinh Vương Trần Liễu, tước Hưng Đạo Vương. Năm 1257, lần đầu tiên quân Mông cổ sang đánh nước ta, ông đã được cử cầm quân trấn giữ biên thuỳ phía bắc. Hai lần sau, năm 1285 và 1287, quân Mông - Nguyên lại đem binh xâm lược nước ta, ông lại được Trần Nhân Tông cử làm Tiết chế thông lĩnh các đạo quân, cả hai lần đều thắng lợi vẻ vang. Trần Quôc Tuấn yêu người hiền, trọng kẻ sĩ, môn khách của ông có những người nổi tiếng như Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu... Đời Trần Anh Tông, ông về trí sĩ ở Vạn Kiếp (nay là xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, Hải Dương) rồi mất ở đó. Nhân dân tôn thờ ông là Đức thánh Trần và lập đền thờ ở nhiều nơi trên đất nước.
Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấh là bài văn nghị luận bằng chữ Hán, được viết trước khi xảy ra cuộc kháng chiến chông quân Nguyên lần thứ hai (năm 1285). Trần Quốc Tuâh viết bài hịch này để thức tỉnh lòng yêu nước và căm thù giặc, đồng thời khích lệ tướng sĩ học tập sách Binh thư yếu lược, cổ vũ tinh thần hăng say luyện tập quân sự, quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược.
Bài hịch có thể chia thành 4 phần :
Phần 1 (từ đầu đến “...còn lưu tiếng tốt”) : nêu những tấm gương trung nghĩa.
Phần 2 (từ “Huôhg chi...” đến “...ta cũng vui lòng”) : tố" cáo sự ngang ngược và tội ác của giặc ; đồng thời bày tỏ lòng căm thù giặc.
Phần 3 (từ “Các ngươi ở...” đến “...không muốn vui vẻ phỏng có được không ?”): phê phán thái độ, hành động sai trái của tướng sĩ và chỉ ra việc đúng nên làm.
Phần CUÔÌ (từ “Nay ta chọn binh pháp...” đến hết): xác định thái độ dứt khoát và tinh thần quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược.
Đọc - Hiểu văn bản :
Ớ phần đầu, Trần Quốc Tuấn nêu lên những tấm gương anh hùng nghĩa sĩ trong sử sách Trung Quốc để khích lệ tỉnh thần trung nghĩa, hi sinh vì nước và ý chí lập công danh của tướng sĩ. Có những gương từ thời xa xưa như thời Xuân Thu, Chiến Quốc, thời Hán, thời Đường ; có những gương gần với thời bấy giờ hơn như thời Tông, thời Nguyên. Có những người là tướng lĩnh, là bề tôi gần như Kỉ Tín, Do Vu, Dự Nhượng ; lại có cả những người bình thường, những bề tôi xa như Thân Khoái, Kính Đức, Cảo Khanh... Cách nêu gương như vậy là toàn diện, có tác dụng khích lệ được nhiều đối tượng, ai cũng có thể làm người trung nghĩa “lưu danh sử sách, cùng trời đất muôn đời bất hủ”. Bên cạnh việc nêu gương, tác giả kết hợp phê phán lối “khư khư theo thói nữ nhi thường tình” để tăng sức khích lệ.
Lịch sử nước Nam không thiếu gương anh hùng, nhưng trong bài hịch, Trần Quốc Tuấn chỉ nêu những tấm gương trong Bắc sử. Đó chỉ là thói quen trong sáng tác văn chương thời trung đại chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn hoá Trung Hoa. Mặt khác, điều đó cũng thể hiện một cách nhìn phóng khoáng của Trần Quốc Tuấn : không cần phải phân biệt dân tộc, tất cả những người trung nghĩa dám xả thân vì chủ, vì vua, vì nước đều đáng ca ngợi.
Phần 2
Sau khi nêu gương sử sách, Trần Quốc Tuấn quay lại với thực tế “thời loạn lạc”, “buổi gian nan” của đất nước.
Trước tiên, tác giả tố cáo sự ngang ngược và tội ác của kẻ thù :
+ Sự ngang ngược : “sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú
diều mà sĩ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ”.
+ Tội ác của kẻ thù : “thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thoả lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn”.
Tội ác và sự ngang ngược của kẻ thù được lột tả bằng những hành động thực tế và qua cách diễn đạt bằng những hình ảnh ẩn dụ. Nỗi căm giận và lòng khinh bỉ của Hưng Đạo Vương thể hiện rõ trong những ẩn dụ chỉ sứ giặc như “lưỡi cú diều”, “thân dê chó”, “hổ đói”. Đặt những hình tượng đó trong thế tương quan “lưỡi cú diều” - “sỉ mắng triều đình”, “thân dê chó” - “bắt nạt tể phụ”, tác giả đã chỉ ra nỗi nhục quốc thể hị chà đạp. Đoạn văn tô' cáo kẻ thù có tác dụng đánh vào lòng tự ái dân tộc và khơi sâu nỗi căm thù giặc ở các tướng sĩ.
Nỗi lòng của Trần Quốc Tuân
Trước tội ác của kẻ thù và nỗi nhục quốc thể, Trần Quốc Tuấn bày tỏ nỗi lòng : “Ta thường tới bữa quên ăn ; nửa đêm vỗ gốì, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa ; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uốhg máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Đoạn văn như trào ra từ trái tim thiết tha yêu nước và sôi sục căm thù, như được viết lên bằng máu và nước mắt. Đau xót, căm thù đến quên ăn, mất ngủ, trở thành nỗi ám ảnh thường trực ngày cũng như đêm. Nỗi căm thù dồn nén thành khát khao hành động giết giặc, tình yêu nước đốt cháy lên lòng quyết tâm hi sinh để rửa mối nhục cho đất nước. Câu văn chính luận mà giàu cảm xúc và đầy hình ảnh đã khắc họa được hình tượng người anh hùng yêu nước, tác động sâu sắc vào tình cảm của tướng sĩ.
Phần 3
Trước khi phê phán tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn nhắc lại những ân tình mình đã dành cho họ. Ớ đoạn này, có thể thấy Trần Quốc Tuấn không chỉ là vị chủ soái biết quan tâm đến thuộc hạ của mình, mà còn là một con người gần gũi và gắn bó với tướng sĩ, đã cùng họ sống chết, vui buồn có nhau.
Trên cơ sở môĩ quan hệ đầy ân tình ấy, Trần Quốc Tuấn vừa chân tình chỉ bảo vừa phê phán nghiêm khắc thái độ, hành động sai trái c'ủa tướng sĩ.
+ Cái sai trước hết là thái độ bàng quan trước vận mệnh của đất nước “nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức ; nghe nhạc thái thường để đãi yến ngụy sứ mà không biết căm”. Thái độ bàng quan không chỉ là tội thờ ơ nông cạn mà còn là sự vong ân bội nghĩa với ân tình của chủ tướng.
+ Cái sai thứ hai là hành động hưởng lạc : ham mê chọi gà, đánh bạc, vui thú vườn ruộng, quyến luyến vợ con, lo làm giàu, ham săn bắn, thích rượu ngon, mê tiếng hát... Tác giả chỉ rõ những việc làm sai tưởng chừng nhỏ nhặt ấy lại dẫn đến những hậu quả tai hại khôn lường: tất cả sẽ mất hết, từ cái chung đến cái riêng, từ chủ soái đến tướng sĩ, từ những cái cụ thể gần gũi là sinh mạng, của cải vật chất, gia quyến vợ con... đến những cái trừu tượng thiêng liêng là danh tiếng, xã tắc tổ tông, mộ phần cha mẹ...
Cách phê phán của tác giả cũng rất linh hoạt. Có khi là nói thẳng, gần như sỉ mắng : “không biết lo”, “không biết thẹn”, “không biết tức”, “không biết căm”. Có khi là cách nói mỉa mai, chế giễu : “cựa gà trông không thể đâm thủng áo giáp của giặc”, “mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh”, “chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết”, “tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai”. Cách phê phán như vậy có tác dụng đánh vào lòng tự trọng cá nhân của tướng sĩ, làm cho họ thức tỉnh.
Sau khi phê phán thái độ, hành động sai trái của tướng sĩ, tác giả chỉ ra cho họ thấy những việc đúng nên làm. Đó là nâng cao tinh thần cảnh giác, tích cực chăm lo “huấn luyện quân sĩ, tập dượt cung tên ; khiến cho người người giỏi như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ”. Những hành động này đều nhằm mục đích quyết chiến quyết thắng kẻ thù : “bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai”. Để lời kêu gọi thấm sâu vào nhận thức, tác giả đưa ra viễn cảnh tốt đẹp khi chiến thắng kẻ thù. Đoạn văn này hoàn toàn tương phản với đoạn văn chỉ ra hậu quả khị thất bại ở phần trên. Hai đoạn văn đăng đốì với nhau từ cách triển khai ý theo lôi trùng điệp và tăng tiến cho đến từ ngữ, giọng điện.., tác động mạnh mẽ vào cả lí trí lẫn tình cảm, tạo nên hiệu quả thuyết phục lớn lao.
Phần kết
Cuối cùng, Trần Quốc Tuấn khích lệ tướng sĩ cố gặng học tập sách Binh thư yếu lược và bày tỏ thái độ dứt khoát, rõ ràng : “Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời dạy bảo của ta, thì mới phải đạo thần chủ ; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời dạy bảo của ta, tức là kẻ nghịch thù”. Thái độ đó tác động vào tình cảm ân nghĩa thủy chung của tướng sĩ, động viên những người còn do dự hãy đứng hẳn vào hàng ngũ của những người quyết chiến quyết thắng. Đoạn cuối bài hịch một lần nữa xác định thái độ đối với kẻ thù “giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung” để động viên ý chí và tinh thần quyết tâm chiến đấu của mọi người.
c. Tổng kết :
Bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn phản ánh lòng yêu nước của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, biểu hiện cụ thể ở lòng căm thù giặc, tinh thần quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược. Hịch tường sĩ là một trong những áng văn chính luận xuất sắc nhất của nước ta thời trung đại, có sự kết hợp giữa lập luận chặt chẽ, sắc bén với lời văn giàu cảm xúc, có sức lôi cuốn mạnh mẽ.
II. ĐỀ VÃN LUYỆN TẬP
Đề 1 : Phân tích đoạn văn sau trong bài “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn :
“Huống chi ta cùng các ngươi sinh phải thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan. Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thăn dê chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, dể thỏa lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn. Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi dể tai vạ về sau !
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối ; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa ; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quăn thù. Dầu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta củng vui lòng”.
DÀN Ý
Mở bài :
Giới thiệu khái quát về bài “Hịch tướng sĩ”.
Giới thiệu đoạn văn cần phân tích.
Thân bài :
Phần trích ở đề bài gồm hai đoạn, có thể phân tích theo cách cắt ngang từng đoạn.
Đoạn đầu :
Nội dung : thức tỉnh tinh thần trách nhiệm và ý thức dân tộc ở tướng sĩ. + Tác giả chỉ ra tình hình nguy ngập của đất nước.
+ Tác giả vạch trần tội ác của kẻ thù : những hành động ngang ngược của sứ giặc bộc lộ bản chất tham tàn và dã tâm xâm lược của kẻ thù.
Nghệ thuật :
+ Câu văn biền ngẫu trùng điệp liên tiếp vạch ra tội ác của sứ giặc.
+ Từ ngữ giàu giá trị miêu tả và sức biểu cảm, diễn tả sâu sắc thái
độ khinh bỉ và lòng căm thù lũ sứ giặc cũng như nỗi nhục quốíc thể bị xúc phạm.
Đoạn sau :
Nội dung : trực tiếp bày tỏ nỗi lòng tác giả.
+ Nỗi đau đớn và căm thù mãnh liệt.
+ Ý chí quyết tiêu diệt giặc ngoại xâm.
Nghệ thuật :
+ Câu văn biền ngẫu nhiều vế ngắn diễn tả được nhiều cung bậc của tâm trạng.
+ Nhiều biện pháp tu từ (ẩn dụ, so sánh, phóng đại) cùng với những động từ mạnh biểu lộ mạnh mẽ và sâu sắc các tâm trạng.
• c. Kết bàĩ : đánh giá ý nghĩa của đoạn văn trích đôi với tác phẩm.
BÀI VIẾT GỢl ý
Triều đại nhà Trần với ba lần chiến thắng giặc Mông - Nguyên đã ghi nên những trang sử vàng rực rỡ hào khí Đông A. Một trong những trang sử ấy phải dành riêng cho Trần Quốc Tuấn, người anh hùng có công lớn nhất của thời đại. Ông là một nhân vật lịch sử đặc biệt, không chỉ lưu danh bằng một sự nghiệp võ công hiển hách mà còn để lại cho muôn đời một áng văn bất hủ : Hịch tướng sĩ. Đây là bài văn nghị luận bằng chữ Hán, đứợc viết trước khi xảy ra cuộc kháng chiến chông quân Nguyên lần thứ hai (năm 1285). Trần Quốc Tuấn viết bài hịch này để thức tỉnh lòng yêu nước và căm thù giặc, đồng thời khích lệ tướng sĩ học tập sách Binh thư yểu lược, cổ vũ tinh thần hăng say luyện tập quân sự, quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược. Bài hịch có đoạn : “Huống chi ta cùng các ngươi., ta cũng vui lòng”.
Ớ phần đầu bài hịch, Trần Quốc Tuấn kêu gọi tinh thần trung nghĩa của tướng sĩ. Phần sau, tác giả tập trung kêu gọi lòng yêu nước và lòng căm thù giặc. Trước tiên, ông chỉ ra cho tướng sĩ thấy được tình hình đất nước : “Huống chi ta cùng các ngươi sinh phải thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan. Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ máng triều đỉìih, đem thân dè chó mà bắt nạt tể phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thỏa lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn. Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi để tai vạ về sau !”. Trong câu văn đầu tiên, cách nói “ta cùng các ngươi” thật thân tình, tạo nên sự đồng cảm sâu sắc. Cụm từ ấy kết hợp với hai vế đối “sinh phải thời loạn lạc” - “lớn gặp buổi gian nan” có tác dụng gắn kết chủ soái và tướng sĩ trong một sứ mệnh thiêng liêng - sứ mệnh của cả một thế hệ trong thời loạn lạc, trong buổi gian nan của đất nước. Gọi đó là thời loạn lac, buổi gian nan vì dó là lúc đất nước đang đứng trước họa xâm lăng của giặc Nguyên - Mông. Sử sách còn ghi rõ : sau thất bại năm 1258, giặc Mông cổ ôm hận lui về nước. Sau khi chiếm xong Trung Quốc, lập nên triều đại nhà Nguyên, vua Nguyên - Mông càng xúc tiến khẩn trương hơn nữa việc mở rộng đế quf c xuống phương Nam. Sứ thần của chúng thường xuyên sang nước ta hạch sáth đủ điều. Lúc thì đòi nộp sổ sách, lương thảo, nộp người, lúc thì đặt chức quan theo dõi hoạt động của ta, lúc thì đòi vua Trần phải sang trình diện... Chúng hông hách, đi lại nghênh ngang, không biết kiêng nể ai. Đoạn văn của Trần Quốc Tuấn đã ghi lại sự thực ấy bằng tất cả những suy nghĩ và nỗi niềm của mình. Miêu tả hình ảnh tên sứ giặc “đi lại nghênh ngang ngoài đường”, “uô'n lưỡi cú diều”, “đem thân dê chó”, gọi kẻ thù là “hổ đói”, tác giả bày tỏ thái độ khinh bỉ và lòng căm giận kẻ thù một cách sâu sắc. Hành động ngang ngược, bản chất tham tàn của kẻ thù được vạch trần bằng những hình ảnh sóng đôi nhau, vừa có giá trị miêu tả vừa giàu sức biểu cảm. Những cụm động từ được đặt liên tiếp nhau trong câu văn biền ngẫu như xoáy sâu vào tâm trí của người đọc, người nghe : uốn lưỡi...sỉ mắng..., đem thân...bắt nạt..., thác mệnh...mà đòi...để thỏa..., giả hiệu...mà thu...để vét... Đau biết bao, nhục biết bao khi nhìn thấy triều đình bị sĩ mắng, tể phụ bị bắt nạt, thể diện của quốc gĩa dân tộc đang bị xúc phạm nặng nề ! Tuy nhiên, quan trọng hơn cả là tác giả đã sáng suốt nhìn thấy dã tâm xâm lược của kẻ thù : “Thật khác nào đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho khỏi tai vạ về sau !”. Việc công nạp cho kẻ thù được so sánh với việc đem thịt mà nuôi hổ đói thể hiện một suy nghĩ sâu sắc : đem thịt mà nuôi hổ đói thì bao nhiêu cho đủ, cuối cùng hổ đói ăn thịt cả người nuôi. Hành động sách nhiễu của kẻ thù chẳng qua là sự mở đường cho hành động xâm lược mà thôi ! Sớm muộn thì đất nước cũng rơi vào họa ngoại xâm. Những câu văn dồn chứa nỗi niềm của Trần Quốc Tuấn đã có tác dụng thức tỉnh tinh thần trách nhiệm và ý thức dân tộc trỏng tướng sĩ.
Phải chứng kiến cảnh kẻ thù ngang ngược hoành hành, càng thấm thìa nỗi nhục quốc thể bị xúc phạm, người anh hùng yêu nước Trần Quôc Tuấn càng căm thù uất hận. Ớ đoạn văn tiếp theo, ông trực tiếp bày tỏ nỗi lòng của mình : “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối ; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa ; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dầu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Nỗi đau vò xé tâm can suốt đêm ngày được thể hiện một cách thấm thìa trong những hình ảnh ẩn dụ, so sánh và cường điệu.
Câu đầu ngắt thănh nhiều vế ngắn liên tiếp nhau như những đợt sóng lòng không bao giờ dứt : “tới bữa quên ăn” - “nửa đêm vỗ gối”, “ruột đau như cắt” - “nước mắt đầm đìa”, “xả thịt lột da” - “nuốt gan uống máu”. Đau đến quên ăn bỏ ngủ, đau đến như cắt ruột, đau đến rơi lệ, nỗi đau của Trần Quốc Tuấn thật lớn lao và cao cả. Đau đớn và căm thù đến cao độ trở thành ý chí quyết giết giặc ngoại xâm. Những hình ảnh “xả thịt lột da”, “nuốt gan uống máu” với những động từ mạnh biểu lộ mạnh mẽ lòng căm thù và ý chí giết giặc. Ngày nào chưa giết được giặc, ngày ấy nỗi căm tức còn vò xé khôn nguôi. Cụm từ “chỉ căm tức.” trong bản dịch nhấn mạnh ý chí quyết chiến đã trở thành khát khao, trở thành niềm ước mong duy nhất. Đã là khát vọng thì dẫu có hi sinh cũng chẳng hề chi : “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta củng vui lòng”. Thân phơi ngoài nội cỏ, xác gói trong da ngựa, đó là những cách nói hình ảnh chỉ sự hi sinh kiêu hùng của tướng sĩ nơi chiến trường. Trăm thân, nghìn xác là cách nói phóng đại chỉ sự sống, chỉ tính mạng của con người. Câu văn là lời thề quyết sống chết với kẻ thù, là lời thề quyết tiêu diệt giặc ngoại xâm. Vì nước mà hi sinh thân xác này, thậm chí cả trăm thân nghìn xác cũng chẳng tiếc, đó là sự hi sinh vô cùng cao quý. Dẫu có chết “cũng vui lòng”, câu nói của Trần Quốc Tuấn mang khí phách của người anh hùng dám hi sinh vì nghĩa lớn, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng. Câu nói ấy cũng sáng ngời tinh thần của thời đại “Sát Thát”, thời đại mà toàn dân tộc quyết chiến đấu chông kẻ thù xâm lược.
Đoạn văn trích là những câu văn hay nhất, thống thiết và hào hùng nhất của bài Hịch tướng sĩ, tiêu biểu cho giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bài văn. Những câu văn biền ngẫu cân xứng, trùng điệp, ngắn gọn mà súc tích, giàu hình ảnh và cảm xúc đã diễn tả sâu sắc tinh thần yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc sâu sắc và ý chí quyết chiến đấu chông ngoại xâm của người anh hùng Trần Quốc Tuấn, phản ánh tinh thần yêu nước của cả dân tộc ở thời đại nhà Trần. Những câu văn ấy cùng với tên tuổi của người anh hùng sẽ sông mãi trong niềm tưởng nhớ và tự hào của người dân Việt.
Đề 2 : Chứng minh bài “Hịch tướng sĩ” vừa có lập luận chặt chẽ, sắc bén vừa giàu hình tượng, cảm xúc, do đó có sức thuyết phục cao.
DÀN Ý
Mở bài :
Giới thiệu bài Hịch tướng sĩ.
Giới thiệu đặc điểm nghệ thuật của bài hịch : vừa có lập luận chặt chẽ, sắc bén vừa giàu hình tượng, cảm xúc.
Thân bài :
Nêu đặc điểm chung của thể hịch.
Chứng minh bài Hịch tướng sĩ có lập luận chặt chẽ, sắc bén :
Bài hịch có trình tự và bô' cục lập luận logic, hợp với tâm lí tiếp nhận.
+ Nêu bô' cục của bài hịch gồm bôn phần.
+ Cách bô' cục có tác dụng khích lệ nhiều mặt để tập trung một hướng.
Cách lập luận phong phú và linh hoạt. Ở mỗi phần, tác giả có cách trình bày luận điểm khác nhau.
Chứng minh bài Hịch tướng sĩ giàu hình tượng và cảm xúc.
Hình tượng và cảm xúc của lời văn xuất phát từ tình cảm mãnh liệt của người viết.
Đặc điểm này thể hiện trong toàn bài hịch, nhưng tập trung nhất là ở phần hai.
Giọng văn trong toàn bài phong phú, đa dạng, bộc lộ nhiều sắc thái và cung bậc tâm trạng, làm nên sức truyền cảm mạnh mẽ.
C. Kết bài : khẳng định ý nghĩa nghệ thuật của tác phẩm.
BÀI VIẾT GỢI ý
Nói về văn chương cổ Việt Nam, Giáo sư Trần Văn Giàu có một ý kiến rất sâu sắc : “Từ thê' kỉ X đến thê' kỉ XV trên nền trời văn chương yêu nước Đại Việt, nổi bật lên ba tác phẩm như một cụm núi Ba Vì cao ngất, người ở xa trăm dặm, người sống sau trăm đời đều theo đó mà gióng hướng : Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ và Bình Ngô đại cáo. (...). Mỗi áng văn một vẻ, cả ba là mẫu mực tuyệt vời ở từng giai đoạn của chủ nghĩa yểu nước truyền thống Việt Nam”. Trong đó, Hịch tướng sĩ của Trần Quô'c Tuấn là một áng văn chính luận xuất sắc, vừa có lập luận chặt chẽ, sắc bén vừa giàu hình tượng, cảm xúc, do đó có sức thuyết phục cao.
Hịch là một thể văn nghị luận cổ, thường được viết theo lối văn biền ngẫu, được vua chúa, tướng lĩnh hoặc thủ lĩnh một phong trào dùng để cổ động, thuyết phục hoặc kêu gọi đấu tranh chông thù trong giặc ngoài. Hịch có kết cấu chặt chẽ, có lí lẽ sắc bén, có dẫn chứng thuyết phục. Đặc điểm nổi bật của hịch là khích lệ tình cảm, tinh thần người nghe.
Trần Quốc Tuấn viết Hịch tướng sĩ lúc ông đang là tổng chỉ huy quân đội, đang rèn tập binh sĩ chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chông Mông - Nguyên lần thứ hai. Tác phẩm được viết để thức tỉnh tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc và ý chí quyết chiến, quyết thắng, khích lệ tướng sĩ chuyên tâm học tập sách Binh thư yếu lược và rèn tập võ nghệ để bảo vệ đất nước. Áng văn của Trần Quốc Tuấn vừa mang đặc điểm chung của thể hịch, vừa có những nét độc đáo riêng.
Cái hay thứ nhất của Hịch tướng sĩ là nghệ thuật lập luận chặt chẽ, sắc bén.
Nói đến nghệ thuật lập luận trước hết là nói đến trình tự và bô' cục lập luận. Cách tổ chức lập luận của bài Hịch tướng sĩ rất logic và hợp với trình tự tâm lí. Bài hịch gồm bôn phần :
Phần một (từ đầu đến “...còn lưu tiếng tốt”) : nêu những tấm gương anh hùng nghĩa sĩ để khích lệ tinh thần trung nghĩa, hi sinh vì nước và ý chí lập công danh của tướng sĩ.
Phần hai (từ “Huống chi.” đến “..ta cũng vui lòng”) : tố cáo sự ngang ngược và tội ác của giặc ; đồng thời bày tỏ lòng căm thù giặc.
Phần ba (từ “Các ngươi ở...” đến “..không muốn vui vẻ phỏng có được không ?”) : trên cơ sở ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, tác giả phê phán thái độ, hành động sai trái của tướng sĩ và chỉ ra việc đúng nên làm.
Phần cuối (từ “Nay ta chọn binh pháp.” đến hết) : xác định thái độ dứt khoát và động viên tinh thần quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược.
Với bô' cục đó, Trần Quốc Tuấn tác động vào nhiều mặt trong nhận thức và tình cam của tướng sĩ để tập trung vào một hướng. Ông khích lệ ý chí lập công danh, tinh thần xả thân vì nước, khích lệ lòng căm thù giặc, nỗi nhục mất nước, khích lệ lòng trung quân ái quốc và ân nghĩa thủy chung, khích lệ lòng tự trọng, liêm sỉ ở mỗi người... để cuối cùng khích lệ tinh thần yêu nước, quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm lược.
Nói đến nghệ thuật lập luận còn là nói đến cách sử dụng lí lẽ và dẫn chứng để trình bày luận điểm. Cách trình bày luận điểm trong bài hịch rất phong phú và linh hoạt.
Ớ phần đầu, tác giả nêu những tấm gương trung nghĩa rồi bình luận : “Giả sử các bậc đó cứ khư khư theo thói nữ nhi thường tình, thì củng chết già ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách, cùng trời đất muôn đời bất hủ được ỉ”. Lời bình ấy có tác dụng khích lệ lòng tự trọng và ý chí lập công danh ở tướng sĩ.
Ớ phần hai, Trần Quốc Tuấn dùng những dẫn chứng thực tê' để tô' cáo sự ngang ngược và tội ác của kẻ thù, sau đó trực tiếp bày tỏ nỗi lòng của mình để khơi gợi nỗi nhục mất nước và lòng căm thù giặc.
Ớ phần ba, sau khi tướng sĩ đã giác ngộ về nhận thức và tình cảm, tác giả mới đưa ra những lời phê phán nghiêm khắc về thái độ bàng quan, cầu an hưởng lạc của tướng sĩ và chỉ ra hậu quả của nó. Lời phê phán rất có sức thuyết phục bởi Trần Quốc Tuấn đã chọn lọc rất chính xác những dẫn chứng để làm nổi bật sự sai trái của tướng sĩ. Sau khi đã chỉ ra cái sai, tác giả mới ôn tồn khuyên bảo những điều tướng sĩ nên làm và chỉ ra kết quả tô't đẹp của nó. Hai đoạn văn được trình bày theo lối tương phản có tác dụng giúp cho tướng sĩ nhận rõ đúng - sai.
ở phần cuối cùng, tác giả vạch rõ ranh giới giữa hai con đường đúng - sai, chính - tà, ta - địch. Ranh giới đó là việc có biết chuyên tập sách Binh 194
thư yếu lược hay không, tức là có tinh thần quyết chiên chông rẻ thù hay không : “Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này, theo lời dạy bảo của ta, thì mới phải đạo thần chủ ; nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời dạy bảo của ta, tức là kẻ nghịch thù”. Sau đó, tác giả giải thích để kết luận : “Vì sao vậy ? Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngươi cứ điềm nhiên không biết rửa nhục, không lo trừ hung, không dạy quân sĩ ; chẳng khác nào quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi dây sau khi giặc giã dẹp yên, muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa Lời kết luận hô ứng chặt chẽ với lời mở đầu : “Giả sử các bậc đó cứ khư khư theo thói nữ nhi thường tình, thì cũng chết già ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách, cùng trời đất muôn đời bất hủ được !”, hoàn chỉnh lập luận và xoáy mạnh vào mục đích nghị luận của bài hịch : thức tỉnh lòng yêu nước, căm thù giặc và tinh thần quyết chiến quyết thắng giặc ngoại xâm.
Một bài nghị luận muôn có sức thuyết phục thì có một kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc sảo chưa đủ mà còn phải có lời văn lôi cuốn. Bên cạnh nghệ thuật lập luận chặt chẽ, sắc bén, cái hay thứ hai của bài Hịch tướng sĩ là lời văn giàu hình tượng và cảm xúc. Trần Quốc Tuấn viết bài hịch lúc đất nước đang lâm nguy, triều đình đang bị giặc làm nhục, bản thân tác giả sôi sục lòng căm thù giặc và ý chí chiến đấu. ở cương vị chủ soái, Trần Quốc Tuấn viết bài hịch này với tấm lòng yêu thương tướng sĩ, muôn tướng sĩ đi con đường đúng đắn, cao cả, dám xả thân vì nước. Tình cảm cao đẹp, mãnh liệt và sâu sắc của người viết đã thấm vào từng câu, từng chữ của áng văn, tạo nên sức lôi cuốn lạ lùng.
Giàu hình tượng và cảm xúc, đặc điểm ấy thể hiện trong toàn bài hịch, nhưng tập trung nhất là ở phần hai. Tội ác và sự ngang ngược của kẻ thù được lột tả qua hình ảnh tên sứ giặc “đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tề phụ, thác mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa, để thỏa lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam Vương mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn”. Hình ảnh tên sứ giặc được miêu tả vừa bằng hình ảnh ẩn dụ (.lưỡi cú diều, thân dè chó), vừa bằng hình ảnh tả thực (đi lại nghênh ngang ngoài đường, sỉ mắng triều đình, bắt nạt tể phụ, đòi ngọc lụa, vét bạc vàng...). Từ ngữ sinh động kết hợp với kết cấu trùng điệp không chỉ khắc họa hình ảnh kẻ thù một cách đầy ấh tượng mà còn biểu lộ tất cả lòng căm thù và khinh bỉ của tác giả đối với chúng, đồng thời cũng diễn tả nỗi nhục lớn khi quốc thể bị xâm phạm. Trong câu văn kết đoạn “Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao. cho kliỏỉ tai vạ về sau !”, biện pháp tu từ so sánh một lần nữa nhấn mạnh bản chất tham lam tàn bạo của kẻ thù ; câu văn mang hình thức câu hỏi tu từ bộc lộ nỗi lo lắng trước họa ngoại xâm. Từ tình hình nguy nan của thời cuộc, Trần Quô'c Tuấn bày tỏ nỗi lòng của mình : “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối ; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa ; chỉ căm tức chưa xả tỉ ịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa', ta củng vui lòng”. Câu văn gồm nhiều vế ngắn đều đặn nốỉ tiếp nhau, mỗi vế như một đợt sóng lòng. Mỗi từ mỗi chữ đều chứa đầy tầm trạng, như chảy ra từ trái tim của người viết. Đau như cắt ruột, đau đến rơi lệ, nung nấu căm thù đến quên ăn bỏ ngủ, sôi sục tinh thần xả thân giết giặc..., những tâm trạng ấy được diễn đạt bằng những hình ảnh khoa trương mà chân thành, giàu sức truyền cảm. Đoạn vãn chính luận mà đậm chất trữ tình. Từ lời tâm tình của Trần Quốc Tuấn, ta nhận ra hình ảnh người anh hùng yêu nước vẫn thường được văn chương xưa nay ca ngợi.
Tình cảm cao cả và chân thành của người viết thấm vào lời văn, biểu hiện trong sự đa dạng của giọng điệu lời văn. Khi ca ngợi những tấm gương trung nghĩa, giọng văn sảng khoái hào hùng. Khi tâm tình gan ruột, giọng văn sâu lắng mà sôi sục, thôhg thiết. Khi phê phán hành động hưởng lạc, thái độ bàng quan của tướng sĩ, giọng văn vừa chân tình vừa nghiêm khắc, lúc sỉ mắng thẳng thừng (không biết lo, không biết thẹn, không biết tức, không biết căm), lúc mỉa mai, chế giễu (cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh,, chén rượu ngon kliông thể làm cho giặc say chết, tiếng hq,t hay không thể làm cho giặc điếc tai...). Khi khuyên bảo điều đúng nên làm, giọng văn ôn tồn thân mật (Nay ta bảo thật các ngươi...). Khi xác định thái độ cuối cùng, giọng văn kiên quyết, dứt khoát. Những lời văn chứa chan cảm xúc như vậy đã tạo nên sức truyền cảm mãnh liệt, tác động đến tinh thần tướng sĩ, gắn kết chủ soái và tướng sĩ trong một nhiệm vụ chung.
Tóm lại, Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn là một áng văn bất hủ. Nó không chỉ là tác phẩm kết tinh lòng yêu nước của dân tộc Đại Việt thời Trần, mà còn là một mẫu mực về văn nghị luận trung đại : sự kết hợp giữa lập luận chặt chẽ, sắc bén với lời vãn giàu