Soạn bài Khi con tu hú

  • Khi con tu hú trang 1
  • Khi con tu hú trang 2
  • Khi con tu hú trang 3
  • Khi con tu hú trang 4
  • Khi con tu hú trang 5
  • Khi con tu hú trang 6
  • Khi con tu hú trang 7
  • Khi con tu hú trang 8
KHI CON TU HÚ
(Tố Hữu)
I. KIẾN THỨC Cơ BẢN
Giới thiệu :
Vài nét về tác giả :
Tố Hữu (1920 — 2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tĩnh Thừa Thiên-Huế . Ông giác ngộ lí tưởng cách mạng khi đang còn là học sinh. Tháng 4-1939, Tố Hữu bị thực dân Pháp bắt giam vào nhà lao Thừa Phủ (Huế), sau đó trải qua các nhà lao ở miền Trung và Tây Nguyên cho đến tháng 3 - 1942, ông vượt ngục tiếp tục hoạt động. Tô" Hữu có nhiều cống hiến cho Cách mạng và cho thơ ca Việt Nam. Ớ Tô" Hữu có sự thôhg nhất giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ. Tô" Hữu là nhà thơ của lí tưởng cộng sản ; thơ Tô' Hữu tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị.
Con đường thơ Tô" Hữu gắn bó chặt chẽ với các giai đoạn của cách mạtíg Việt Nam, được đánh dấu bởi các tập thơ : Từ ấy (1937 - 1946), Việt Bắc (1947 - 1954\ Gió lộng (1955 - 1961), Ra trận (1962 - 1971), Máu và hoa (1972 - 1977), Một tiếng dờn (1992), Ta với ta (1999).
Bài thơ Khi con tu hú được Tô' Hữu sáng tác tháng 7 - 1939 ở nhà lao Thừa Phủ, lúc đã hơn ba tháng trời bị giam cầm. Bài thơ nằm trong phần Xiềng xích của tập thơ Từ ấy.
Khi con tu hú là tiếng lòng của người thanh niên 19 tuổi say mê lí tưởng, tha thiết yêu đời và hăng hái hoạt động nhưng bị giam cầm, cách biệt hoàn toàn với cuộc sông bên ngoài.
Đọc - Hiểu văn bản :
Nhan đề bài thơ
Bài thơ có một cái nhan đề khá lạ : Khi con tu hú. Bô"n chữ ấy chỉ là một vê" phụ của câu, nên chưa trọn ý. Tuy nhiên, chính chỗ chưa trọn vẹn đó đã mở ra bao nhiêu liên tưởng. Căn cứ vào nội dung bài thơ, có thể hiểu là : Khi chim tu hú gọi bầy là khi mùa hè đến, người tù cách mạng càng cảm thấy ngột ngạt trong phòng giam chật chội, càng thèm khát cháy bỏng cuộc sống tự do tưng bừng ở bèn ngoài. Tiếng chim tu hú đã gợi mở mạch cảm xúc cho bài thơ. Đô"i với người tù, sự liên hệ với cuộc sông bên ngoài chỉ qua những âm thanh, tiếng chim ấy là tín hiệu của mùa hè rực rỡ, của sự sống tưng bừng ở bên ngoài, của trời cao tự do, lồng lộng. Vì vậy, tiếng chim đã tác động mạnh mẽ đến tâm hồn người tù.
Cảnh mùa hè được miêu tả trong 6 câu thơ đầu :
Khi con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao Đôi con diều sáo lộn nhào từng không...
Tiếng chim tu hú gọi bầy là âm thanh quen thuộc chôn đồng quê báo hiệu mùa hè đang đến. Âm thanh ấy đã thức gọi trong tâm hồn người tù một khung cảnh mùa hè. Sáu câu thơ lục bát, sau câu mở đầu tả tiếng chim năo nức gọi bầy, năm câu còn lại mở ra cả một thế giới của sự sông tươi đẹp, rộn rã. Chĩ là trong tưởng tượng nhưng cảnh mùa hè hiện lên thật cụ thể và sông dộng, đủ cả hình ảnh, âm thanh, màu sắc và cảm giác : màu vàng của lúa chiêm đang chín trên cánh đồng, của những hạt bắp phơi trên sân rực rỡ nắng hồng ; tiếng ve ngân trong vườn cây râm mát ; vị ngọt của trái chín ; đôi cánh diều chao lượn trên bầu trời xanh cao rộng, tiếng sáo diều vi vu... Đó không chỉ là bức tranh của thiên nhiên, của sự sống, mà còn là bức tranh thân thuộc của quê hương này. Chỉ từ một âm thanh, người tù hình dung ra cả bức tranh của mùa hè tràn trề nhựa sông ở mọi tầng bậc gần - xa, cao - thấp của không gian. Ớ trong bôh bức tường chật chội của nhà giam, chỉ qua một âm thanh nghe được, người tù có thể nhìn thấy, có thể ngửi, có thể nếm, có thể cảm được bằng da thịt... tất cả những vẻ đẹp hấp dẫn của sự sông bên ngoài. Nếu không có niềm gắn bó thiết tha với cuộc đời, không có niềm khao khát tự do mãnh liệt, không có một tâm hồn tinh tế nhạy cảm và một trí tưởng tượng lãng mạn vô cùng phong phú thì nhà thơ không thể viết được những câu thơ tuyệt vời đến như thế !
Tâm trạng đau khổ, uất ức vì bị giam cầm thể hiện trong 4 câu thơ cuối :
Ta nghe hè dậy bền lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi !
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu !
Bỗh câu thơ lục bát thực sự là hai câu cảm thán trực tiếp bật ra từ tâm trạng ngột ngạt, uất ức đến không chịu nổi. Những cách ngắt nhịp bất thường (nhịp 6/2 : Mà chân muốn đạp tan phòng/ hè ôi ; nhịp 3/3 : Ngột làm sao/ chết uất thôi/, kết hợp với những từ ngữ mạnh (đập tan phòng, chết uất/ và những từ ngữ cảm thán (ôi, làm sao, thôi/ làm nổi bật cậi cảm giác ngột ngạt cao độ, niềm khao khát cháy bỏng muôn thoát ra khỏi cảnh tù ngục để trở về với cuộc sông tự do bên ngoài kia. Ngoài trời, chim tu hú cứ kêu, cứ gọi bầy, nghe càng thúc giục, càng làm cho người tù đau khổ thấm thìa hơn. Và trong lòng người tù, niềm khao khát tự do cũng lên tiếng gọi, thôi thúc người tù vượt thoát cảnh giam cầm để trở về với cuộc đời hoạt động sôi nổi, tự do.
4. Bài thơ gồm hai đoạn tách bạch rõ ràng nhưng liền mạch : đoạn đầu tả cảnh (cảnh mùa hè), đoạn sau tả tình (tâm trạng người tù). Cảnh đẹp, đầy sức sông ; tình sôi nổi và da diết. Cảnh trong tưởng tượng càng đẹp, càng hấp dẫn, người tù càng đau khổ, uất ức vì bị giam cầm, niềm khao khát tự do càng cháy bỏng. Đó chính là mạch cảm xúc nhất quán của bài thơ, thể hiện tâm hồn yêu đời, yêu tự do của chàng thanh niên cách mạng Tô' Hữu. Thể thơ lục bát mềm mại, uyển chuyển, linh hoạt đã thể hiện rất sâu tâm trạng người tù, làm nên cái hay của bài thơ.
c. Tổng kết :
Bài thơ lục bát giản dị, thiết tha, đã thể hiện sâu sắc lòng yêu cuộc sống và niềm khát khao tự do cháy bỏng của người chiến sĩ cách mạng trẻ tuổi trong cuộc sổng tù đày.
ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề : Phân tích tâm trạng của nhân vật trữ tình trong bài thơ “Khi con tu hú” (Tố Hữu).
DÀN Ý
Mở bài :
+ Bài thơ Khi con tu hú được Tô' Hữu viết vào tháng 7-1939, lúc nhà thơ bị thực dân Pháp bắt giam tại nhà lao Thừa Phủ (Huế).
+ Bài thơ thể hiện tâm trạng của người thanh niên cộng sản mười chín tuổi sau bôn tháng trời bị tách biệt khỏi cuộc đời tự do.
Thân bài :
Niềm yêu cuộc sông và nỗi khao khát tự do : (sáu câu thơ đầu)
+ Tiếng chim tu hú gọi bầy đánh thức hình ảnh mùa hè trong tâm hồn người tù.
+ Bức tranh mùa hè hiện lên thật sinh động và cụ thể, nồng nàn tình yêu cuộc sông và nỗi khao khát tự do.
Càng khao khát tự do, người tù càng đau khổ vì bị giam cầm (bôn câu cuôĩ)
+ Tiếng chim tu hú và khung cảnh mùa hè trong tưởng tượng thôi thúc người tù muôn vượt thoát cảnh giam cầm.
+ Tiếng chim tu hú càng khiến cho người tù đau khổ, uất hận vì khao khát tự do mà đành chịu bất lực trong cảnh tù đày ngột ngạt, c. Kết bài :
+ Tâm trạng của người tù cộng sản được thể hiện tự nhiên, chân thành và tha thiết, làm nên sức hấp đẫn của bài thơ Khi con tu hú.
+ Tâm trạng của Tô' Hữu bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn của người chiến sĩ cách mạng.
BÀI VIẾT GỢl ý
Tháng 4-1939, lúc Tô' Hữu đang hăng hái hoạt động thì bị thực dân Pháp bắt giam vào nhà lao Thừa Phủ (Huế). Đây là thời điểm bắt đầu cho một chặng đường gian nan mới trong đời hoạt động của Tô' Hữu và cũng bắt đầu cho phần Xiềng xích của tập thơ Từ ấy. Khi con tu hú được viết vào tháng 7- 1939, là bài thơ tiêu biểu của phần Xiềng xích. Bài thơ bày tỏ tâm trạng của người thanh niên cộng sản mười chín tuổi đã bốn tháng trời bị giam cầm, bị tách biệt khỏi cuộc đời. Bài thơ là tiếng nói chân thành của lòng yêu cuộc sôhg và niềm khát khao tự do cháy bỏng.
Ớ bài thơ Tâm tư trong tù, bài thơ mở đầu phần Xiểng xích, Tô' Hữu đã thể hiện chân thành nỗi buồn cô đơn của mình trong cảnh tù đày. Trong cảnh ngộ ấy, người tù hướng cả cõi lòng ra cuộc sông bên ngoài :
Cô đơn thay là cảnh thân tù Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức ơ ngoài kia vui sướng biết bao nhiêu
Từ những âm thanh nghe được, nhà thơ hình dung ra cuộc đời bên ngoài hấp dẫn đến tuyệt vời :
Tôi mơ hồ nghe tất cả bên ngoài Đang ríu rít giữa một trời rộng rãi Đang hút mật của đời sây hoa trái Hương tự do thơm ngát cả ngàn ngày
Ớ bài thơ “Khi con tu hú, âm thanh của tiếng chim tu hú đã khơi dòng cảm xúc của nhân vật trữ tình. Khi chim tu hú gọi bầy, ấy là lúc đã bắt đầu vào hè. Rất tự nhiên, tiếng chim tu hú làm sông dậy trong lòng người tù cảnh vật mùa hè chôn ruộng đồng quê hương :
Khỉ con tu hú gọi bầy
Lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao Đôi con diều sáo lộn nhào từng không...
Hiện ra trong tưởng tượng là cả một thê' giới tràn đầy sức sống với những hình ảnh, âm thanh, màu sắc, hương vị cụ thể và sinh động. Người tù như ngửi được hương thơm thoang thoảng mà nồng nàn của “lúa chiêm đang chín”, như nếm được vị ngọt của trái cây đang “ngọt dần”. Không phải chỉ là lúa chín, trái ngọt, mà là “lúa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần”. Những chữ “đang”, “dần” được dùng rất hay, chúng diễn tả được sức sông vận động bên trong của cảnh vật. Người tù như đang sống lại cái cảm giác giữa nóng bỏng mùa hè mà được nằm trong bóng mát rười rượi của vườn râm để nghe dậy tiếng ve ngân. Tiếng ve ngân nga, rộn rã như khúc nhạc bất tận của mùa hè. Nếu ba câu thơ trên là âm thanh, hương vị và cảm giác, thì ba câu dưới thiên về hình ảnh và màu sắc : dưới thấp là màu vàng tươi của bắp, màu hồng tươi của nắng “bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào”, trên cao là màu xanh trong của bầu trời cao rộng đến thăm thẳm “trời xanh càng rộng càng cao”. Sinh động nhất là hình ảnh “đôi con diều sáo lộn nhào từng không”. Từ “lộn nhào” rất giàu sức miêu tả. Hình ảnh những con diều bay lượn, nhào lộn trên bầu trời và tiếng sáo diều vi vu từ bao đời đã là một nét đẹp riêng của ruộng đồng xứ sở. Và phải chăng trong hình ảnh con diều bay giữa bầu trời cao rộng, ta nghe ở đó cả niềm khao khát tự do của người tù ?
Chỉ từ một âm thanh là tiếng chim tu hú từ bên ngoài vọng vào, người tù đã hình dung ra cả một mùa hè tươi đẹp, tưng bừng sự sống, và tưởng chừng như đang nhìn thấy, đang nghe thấy, đang ngửi thấy, nếm thấy và sờ thấy mọi thứ của cảnh vật. Trí tưởng tượng lãng mạn trẻ trung và bay bổng đã vượt qua bôn bức tường nhà giam để đến với thế giới bên ngoài vô vàn quyến rũ. Điều đáng nỗi nhất ở đây là bức tranh mùa hè ấy không chỉ được hình dung bởi trí tưởng tượng phong phú, mà chủ yếu được hình dưng từ một tâm hồn nồng nàn yêu cuộc sông, tha thiết gắn bó với quê hương, và khao khát tự do.
Như hai mặt đốì lập mà thông nhất của một tình yêu cuộc sông, càng khao khát tự do, người tù càng đau khổ vì cảnh giam cầm :
Ta nghe hè dậy bên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi !
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu !
Ở đoạn trên, tâm trạng người tù ẩn trong cảnh, chan hòa vào cảnh. Ớ đoạn ùày, niềm khao khát bật ra thành lời giãi bày trực tiếp với mùa hè : “Ta nghe hè dậy bên lòng - Mà chân muôn đạp tan phòng, hè ôi !”. Lời tâm sự thật tha thiết và niềm khao khát thật mạnh mẽ ! Mùa hè tươi đẹp của cuộc sông bên ngoài thôi thúc người tù muôn đạp tan cả bốn bức tường phòng giam. Nhưng đó chỉ là ý muốh, là khát vọng chủ quan. Còn hiện tại khách quan vẫn là cảnh thân tù, vẫn trơ trơ ra đó bốn bức tường nhà giam. Không thể nào vượt thoát được, người tù thấm thìa cảm giác ngột ngạt đến mức không kìm được lời than đầy đau khổ uất hận : “Ngột làm sao, chết uất thôi - Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu”. Câu thơ sáu chữ chia thành hai vế, là hai câu cảm thán chứa đựng nỗi uất ức trong cảnh giam cầm. Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu, chữ cứ trong câu thơ như xoáy sâu vào nỗi đau, nó vạch rõ hai không gian : ngoài kia là tiếng chim tu hú, là mùa hè tươi đẹp và bầu trời rộng rãi ; trong này là bốn bức tường phòng giam ngột ngạt.
Với mười câu lục bát giản dị, bài thơ Khi con tu hú thể hiệ i thật sâu sắc, thật thiết tha lòng yêu cuộc sông và niềm khao khát tự do cháy bỏng của người tù cộng sản trong cảnh tù đày. Những nỗi niềm riêng ấy cho thây tâm hồn của người chiến sĩ cách mạng thật phong phú và cao đẹp.
Đề 2 : Bình giảng bài thơ “Khi con tu hú” của nhà thơ Tố Hữu.
BÀI VIẾT GỢI ý
Trong bóng tối mịt mờ chôn lao tù, dường như sự sông đã chấm dứt hẳn, bởi lạnh giá, bởi cô độc. Vậy mà, giữa những âm thanh khô khóc, chói tai của tiếng xiềng xích, vẫn vang lên nhịp tim thổn thức, rạo rực của một hồn thơ trẻ tha thiết yêu đời, yêu người. Tố" Hữu, bằng cảm xúc chân thật của mình, đã cất lên tiếng nói tâm tình tha thiết của người chiến sĩ cộng sản suốt đời chiến đâu cho lí tưởng và tâm hồn khát khao tự do đến cháy .bỏng trong bài thơ Khi con tu hú.
Nhan đề bài thơ là một sự diễn đạt chưa trọn ý một cách kì lạ. Kì lạ bởi chính chỗ chứa trọn vẹn đó đã mở ra bao nhiêu liên tưởng. Giờ đây, người ta không còn thấy bóng dáng cô đơn, nặng nề của người tù Tô' Hữu mà chỉ nghe tiếng lòng nhà thơ đang rộn ràng, ngân vang khi đón nhận lấy tiếng chim tu hú từ xa rộn về. Tu hú gọi bầy là âm thanh hết sức quen thuộc ở chôn làng quê Việt Nam, báo hiệu cho sự chuyển mình của sự sông - mùa hè về. Lúc này, khi con tu hú gọi bầy, trong hoàn cảnh tách biệt với cuộc sông bên ngoài, người chiến sĩ cách mạng càng cảm thấy ngột ngạt hơn, tù túng hơn, vì vậy mà càng thêm khát khao cháy bỏng hướng đến cuộc sông tự do tươi đẹp bên ngoài :
Khi con tu hú gọi bầy
Lủa chiêm đang chín, trái cây ngọt dần
Vườn râm dậy tiếng ve ngân
Bắp rây vàng hạt đầy sân nắng đào
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không...
Mười chín tuổi, còn trẻ trung, bồng bột, người thanh niên Tô' Hữu đã tìm thấy cho mình lí tưởng cao đẹp cuộc đời. Những bước đi không mỏi mệt trên chặng đường chông gai, phút chô'c phải dừng đột ngột, bị bó buộc tù hãm khiến cho Tô' Hữu không khỏi có lúc thốt lên chua xót: “Cô đơn thay là cảnh thân tù”. Nhưng rồi phút giây ấy cũng nhanh chóng đi qua, nhường chỗ cho không gian cảnh vật tràn trề nhựa sông : những bông lúa chín, hạt bắp vàng, ánh nắng đào, trời xanh rộng, đôi sáo diều, tiếng ve ngân... Phải có một sự tưởng tượng lãng mạn, bay bổng và một tâm hồn mến yêu sự sông sâu sắc mới có thể vẽ lại toàn bộ bức tranh phong cảnh mùa hè sông động đến vậy. Thiên nhiên hiện lên tuyệt đẹp kia không phải là hiện thực, tất cả chỉ là sự .ưởng tượng của một tâm hồn mơ mộng khi căng tất cả các giác quan để nghe, để nhìn, để ngửi, để cảm nhận không khí hè qua tiếng gọi bầy của tu hú. Chỉ bằng vài đường nét, màu sắc, âm thanh, nhà thơ đã phơi bày một bức tranh đầy nhựa sông vói cánh đồng lúa chiêm quen thuộc của quê hương đã bao lần đi vào thơ Tô" Hữu :
Đây từng ô mạ xanh mơn mởn (...)
Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi !
Giờ đây lại hiện về trong trạng thái căng đầy nhất, viên mãn nhất, lúa ngả vàng, ngả sang màu niềm vui, là màu vàng rực rỡ của mùa hè, của mồ hôi kết tinh thành hạt thóc.
Với một tâm hồn lãng mạn tinh tế, Tô' Hữu đã cảm nhận sự thay đổi của màu nắng với nhiều góc độ : từ ánh nắng của “đôi ánh lạt ban chiều” {Tâm tư trong tù'), ánh nắng yếu ớt dễ bóp nghẹt bởi bóng tối tới một “ánh nắng đào” giữa mùa hè, lấp đi dấu ấn của “vườn râm”. Câu thơ là một không gian thoải mái với sắc hồng kì lạ. Đó là thứ ánh sáng êm dịu, hiền hậu, vỗ về cho con người trước những mất mát, đau khổ trong cuộc đời. Có lẽ từ chính sự gặp gỡ tuyệt diệu của chàng thanh niên trẻ tuổi :
Từ ấy trong tôi hừng nắng hạ Mặt trời chân lí chói qua tim.
đã khiến cho ánh nắng mùa hè có sự thay đổi tinh tế đến vậy. Và sự xuất hiện của bầu trời trong vắt như mặt nước yên bình nâng tầm bay cho các cánh diều đã đẩy tầm nhìn, tầm nhận thức của nhà thơ lên đến độ sâu nhất, xa nhất, cao nhất :
Trời xanh càng rộng càng cao
Đôi con diều sáo lộn nhào từng không
Thấp thoáng trong ánh nhìn người tù, là một không gian mở rộng đến vô cùng vô tận. Mặc dù có thể lúc ấy ánh nhìn của nhà thơ - chiến sĩ có phần bị che khuất đi bởi chấn song nhà tù chật hẹp. Trên bầu trời lúc này không phải là một mình lẻ loi, con sáo diều cũng có đôi, có cặp, có được sự tự do bay lượn trong vùng trời riêng kia. Huống chi là con người. Vậy mà, thực tế thì sao ? Con người cô đơn, cô đơn hơn bao giờ hết, và mất tự do.
Không ngẫu nhiên mà bài thơ có sự bổ đôi của hai câu thơ lục bát. Nhà thơ diễn tả bức tranh mùa hè sống động đối lập với cảnh mùa đông trong ngục tối đã làm nổi bật lên khát vọng cháy bỏng của người chiến sĩ trên con đường tìm đến tự do. Bôn câu thơ kết đã lắng lại cho tiếng lòng náo nức bật lên:
Ta nghe hè dậy hên lòng
Mà chân muốn đạp tan phòng, hè ôi !
Ngột làm sao, chết uất thôi
Con chim tu hú ngoài trời cứ kêu.
Khổ thơ là lời bộc lộ trực tiếp cho tâm tư con người. Bôn câu cảm thán là sự dồn nén những cảm xúc mãnh liệt của một trái tim đau khổ, uất hận vì mất tự do. Nhà thơ nghe hè, cảm nhận hè chỉ qua tiếng chim tu hú gọi bầy. Hè đã đến, ba tháng trong ngục tối cũng đã trôi qua, lòng người thanh niên đầy nhiệt huyết càng trỗi dậy mạnh mẽ hơn tiếng gọi lên đường, tiếng gọi của tự do. Từ trong sâu 'thẳm tâm tư mình, người tù đã nhận ra tất cả cuộc sống náo nức, vui tươi bên ngoài lúc chỉ là tưởng tượng, bởi đó là tất cả những hình ảnh tồn tại trong trí nhớ của nhà thơ. Đó là những cánh đồng, những vườn cây trái, những vườn râm. Còn hiện tại, kẻ thù đang giày xéo quê hương, đã biến bao đồng quê thành hoang mạc và thực chất không gian tự do mà nhà thơ khát khao bên ngoài kia cũng chỉ là một không gian tù hãm, một cái lồng to giam chí lớn, như chụp lên cuộc sống con người, lên quê hương. Cho nên, khổ thơ là sự bừng tỉnh của lí trí, là tâm trạng uất ức, ngột ngạt muôn đạp bỏ tất cả, tìm đến không gian tự do, tự tại thật sự. Bằng cách ngắt nhịp mạnh kết hợp với những từ ngữ mạnh mẽ : “đạp tan”, “chết uất”, câu thơ đã tập trung cao độ tinh thần yêu đời, yêu người cháy bỏng.
Tiếng kêu của tu hú cứ day đi day lại cả bài thơ, như thúc giục, như lời thôi thúc người tù vượt thoát cảnh giam cầm, tìm về với tự do. Có lẽ vì vậy mà ba năm sau, Tô' Hữu đã vượt ngục và quay về đội ngũ, để làm tròn ước nguyện công hiến tất cả cuộc đời cho cách mạng.
Khỉ con tu hú là một bài thơ kết hợp hài hòa của cảnh và tình. Cảnh mở ra rạo rực, tha thiết, tình lắng đọng da diết, trầm buồn. Với tâm hồn dân tộc, ngòi bút linh hoạt, mềm mại, Tô' Hữu xứng đáng với danh hiệu con chim đầu đàn trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam.
(Bài của học sinh Trần Thị Thanh Nga)