Soạn bài Thuế máu (trích bản án chế độ thực dân Pháp)

  • Thuế máu (trích bản án chế độ thực dân Pháp) trang 1
  • Thuế máu (trích bản án chế độ thực dân Pháp) trang 2
  • Thuế máu (trích bản án chế độ thực dân Pháp) trang 3
  • Thuế máu (trích bản án chế độ thực dân Pháp) trang 4
THUẾ MÁU
(Trích Bản án chế độ thực dân Pháp - Nguyễn Ái Quốc)
HƯỚNG DẪN ĐỌC - HlỂU
Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc (tên gọi của Bác Hồ trong thời kì hoạt động cách mạng trước 1942) được viết bằng tiếng Pháp, xuất bản lần đầu tiên tại Pa-ri năm 1925, xuất bản lần đầu tiên ở Việt Nam năm 1946. Tác phẩm gồm 12 chương và phần phụ lục Gửi thanh niên Việt Nam. Với tư liệu phong phú, chính xác, với nghệ thuật châm biếm sắc sảo, tác phẩm đã tô' cáo và kết án những tội ác tày trời của thực dân Pháp trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội... Tác phẩm cũng nói lên tình cảnh khôn cùng, tủi nhục của người dân nô lệ ở các xứ thuộc địa trên thế giới, từ đó bước đầu vạch ra đường lối đấu tranh cách mạng đúng đắn để tự giải phóng, giành quyền độc lập. Sự ra đời của Bản án chế độ thực dân Pháp đã giáng một đòn tiến công quyết liệt vào chủ nghĩa thực dân, vạch ra con đường cách mạng và tương lai tươi sáng cho các dân tộc bị áp bức.
Đoạn trích Thuế máu nằm trong chương I (cùng tên) của tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp, ở chương này, tác giả tập trung vạch trần bộ mặt giả nhân giả nghĩa, các thủ đoạn tàn bạo của chính quyền thực dân Pháp trong việc dùng người dân các nước thuộc địa làm vật hi sinh cho quyền lợi của mình trong các cuộc chiến tranh thảm khô'c. Lợi dụng xương máu của những con người nghèo khổ - đó là một trong những tội ác ghê tởm nhất của thực dân đế quốc.
Nhan đề và tên các phần trong văn bản
Nhan đề “Thuế máu” có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc và đầy sức ám ảnh. Cái tên ấy gắn với sự thực người dân thuộc địa phải gánh chịu nhiều thứ thuế bất công vô lí. Một trong những thứ thuế - Nguyễn Ái Quốc xem đó là một thứ thuế - tàn nhẫn, ghê gớm nhất là bị bóc lột xương máu, mạng sông. Nguyễn Ái Quốc dùng cái tên “thuế máu” để nói lên số phận thảm thương của người dân thuộc địa, đồng thời bày tỏ lòng căm. phẫn, thái độ mỉa mai đối với tội ác đáng ghê tởm của chính quyền thực dân.
Văn bản gồm 3 phần, được đặt tên như sau :
Phần I - Chiến tranh và “người bản xứ”
Phần II - Chế độ lính tình nguyện
Phần III - Kết quả của sự hi sinh
Trình tự và cách đặt tên các phần như thế gợi lên quá trình lừa bịp, bóc lột đến cùng kiệt thuế máu của bọn thực dân cai trị, đồng thời thể hiện tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, thái độ phê phán triệt để của Nguyễn Ái Quốc.
Phần I - Chiến tranh và “người bản xứ” : phần này có hai ý lớn : a. Thái độ của các quan cai trị thực dân đối với người dân thuộc địa
+ Trước khi có chiến tranh : người dân thuộc địa bị xem là giông người hạ đẳng, bị đối xử đánh đập như súc vật (Trước năm 1914, họ chỉ là những tên da đen bẩn thỉu, những tên “An-nam-mít” bẩn thỉu, giỏi lắm thì cũng chỉ biết kéo xe tay và ăn đòn của các quan cai trị nhà ta).
+ Khi cuộc chiến tranh vừa bùng nổ : lập tức họ được các quan cai trị tâựg bốc, vỗ về như những đứa “con yêu”, những người hạn hiền của “các quan cai trị”, được phong cho cái danh hiệu tối cao là “chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do”. Điều ấy nói lên thủ đoạn lừa bịp bỉ ổi của chính quyền thực dân để bắt đầu biêh họ thành vật hi sinh.
h. Số phận thảm thương của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh phi nghĩa :
+ Họ phải đột ngột xa lìa gia đình, quê hương vì mục đích vô nghĩa, đem mạng sông mà đánh đổi lấy những vinh dự hão huyền.
+ Họ bị biến thành vật hi sinh cho lợi ích, danh dự của những kẻ cầm quyền. Tác giả đã kể ra bao cái chết thảm thương của người lính thuộc địa trên các bãi chiến trường ác liệt xa xôi. Giọng điệu đoạn này vừa giễu cợt, vừa xót xa.
+ Nhiều người dân thuộc địa không trực tiếp ra mặt trận nhưng phải làm công việc chế tạo vũ khí, phục vụ chiến tranh ở hậu phương cũng chịu bệnh tật và những cái chết đau đớn.
+ Cuối cùng, tác giả nêu ra một con số đáng chú ý về sô' người bản xứ đã bỏ mình trên đất Pháp trong mấy năm chiến tranh thế giới thứ nhất.
Phần II - Chế độ lính tình nguyện
Các thủ đoạn, mánh khoé bắt lính của bọn thực dân
+ Tiêh hành lùng ráp, vây bắt và cưỡng bức người ta phải đi lính.
+ Lợi dụng chuyện bắt lính mà dọa nạt, xoay xở kiếm tiền đối với những nhà giàu.
+ Sẵn sàng trói, xích, nhô't người ta như nhốt súc vật, sẵn sàng đàn áp dã man nếu có chông đô'i.
Trong khi làm những điều trên, chính quyền thực dân vẫn rêu rao về lòng tự nguyện dầu quân của người dân thuộc địa. Lời tuyên bô' trịnh trọng của phủ toàn quyền Đông Dương chỉ càng bộc lộ sự lừa bịp trơ trẽn.
Từ việc tô' cáo các thủ đoạn bắt lính của bọn thực dân, tác giả đã cho thấy không hề có việc người dân thuộc địa tình nguyện hiến dâng xương máu như lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền. Tác giả còn kể ra các sự thực : người dân thuộc địa hoặc phải trôn tránh, hoặc phải xì tiền ra. Thậm chí họ còn tìm cách tự làm cho mình nhiễm phải những bệnh nặng nhất để khỏi đi lính.
ớ phần này, tác giả dùng nhiều câu chuyện thực tế, nhiều dẫn chứng sinh động mang nội dung tố cáo mạnh mẽ. Tác giả còn nhắc lại bằng giọng điệu giễu cợt các lời tuyên bô" trịnh trọng của bọn thực dân cầm quyền rồi phản bác lại bằng những thực tế hùng hồn.
Phần III - Kết quả của sự hi sinh : nêu lên kết quả của sự hi sinh của người dân thuộc địa trong các cuộc chiến tranh và cách đốì xử của chính quyền thực dân đô'i với họ sau khi bóc lột hết thuế máu.
+ Khi chiến tranh chấm dứt thì các “lời tuyên bô" tình tứ” củà các ngài cầm quyền cũng tự dưng im bặt. Những người từng hi sinh bao xương mẳu, từng được tâng bô"c trước đầy mặc nhiên trở lại “giông người hèn hạ”.
+ Đô'i với người dân thuộc địa, sự hi sinh chẳng hề mang lại lợi ích gì cho họ bởi chê' độ bản xứ “không hề biết đến chính nghĩa và công lí”.
+ Bộ mặt tráo trở, tàn nhẫn của chính quyền thực dân lại được bộc lộ trắng trợn khi tước đoạt hết của cải mà người lính thuộc địa mua sắm được, đánh đập họ vô cớ, đối xử với họ thô bỉ như đô"i với súc vật. Người dân thuộc địa lại trở về vị trí hèn hạ ban đầu sau khi bị bóc lột trắng trợn hết thuê' máu.
Đặc sắc nghệ thuật của văn bản
Trình tự hố cục :
Ba phần trong văn bản được bô' cục theo trình tự thời gian : trước, trong và sau khi xảy ra cuộc chiến tranh thê' giới lần thứ nhất 1914-1918. Theo trình tự bô' cục này, bộ mặt giả nhân giả nghĩa trơ trẽn, bản chất độc ác của chính quyền thực dân Pháp xung quanh việc bóc lột thuê' máu được phơi bày toàn diện, triệt để. Mặt khác, thân phận thảm thương của người dân nô lệ ở các xứ thuộc địa được miêu tả một cách cụ thể, sinh động.
Nghệ thuật châm hiếm, đả kích sắc sảo, tài tỉnh
+ Xây dựng một hệ thông hình ảnh sinh động, giàu ân tượng và sức mạnh tô' cáo.
Những hì-nh ảnh có tính xác thực, phản ánh chính xác tình trạng thực tế. Bản thân các hình ầnh ấy đã mang tính lí lẽ không thể chối cãi.
Các hình ảnh vừa xác thực, vừa mang tính châm biếm, trào phúng sắc sảo mà xót xa. Nhiều hình ảnh, nhất là ở phần Chiến tranh và người bản xứ mang đậm cảm hứng mỉa mai chua chát, cay đắng cho sô' phận thảm thương của người dân thuộc địa
Ngôn từ của tác phẩm cũng mang màu sắc trào phúng, châm biếm (con yêu, bạn hiền, chiến sĩ bảo vệ công lí và tự do, lấy máu mình tưới những vòng nguyệt quế, đem xương mình chạm nên những chiếc gậy, vật liệu biết nói...).
+ Giọng điệu trào phúng đặc sắc :
Giọng điệu giễu cợt, mỉa mai {đùng một cái, ấy thế mà...ỵ
Nhắc lại những mĩ từ, những danh hiệu hào nhoáng mà chính quyền thực dân khoác cho người lính thuộc địa để đả kích bản chất lừa bịp trơ trẽn của chúng.
Sử dụng rất thành công giọng điệu giễu nhại, nghệ thuật phản bác (chẳng hạn đoạn cuối phần hai). Dùng liên tiếp các câu hỏi để nêu lên các sự thực đập lại lời lẽ bịp bợm của bọn cầm quyền.
Yếu tố biểu cảm
Các hình ảnh được xây dựng mang tính biểu cảm cao. Từ đó toát lên số phận đáng thương của người dân thuộc địa, bộ mặt giả nhân giả nghĩa bỉ ổi của chính quyền thực dân. Từ hệ thống hình ảnh và giọng điệu của tác phẩm, người đọc nhận ra một lòng căm phần kẻ thống trị tàn ác, niềm xót xa thương cảm cho thân phận người dân nô lệ bị lợi dụng, bị bóc lột “thuế máu”.
Chính quyền thực dân đã biến người dân nghèo khổ ở các xứ thuộc địa thành vật hi sinh để phục vụ cho lợi ích của mình trong các cuộc chiến tranh tàn khốc. Nguyễn Ái Quốc đã vạch trần sự thực ấy bằng những tư liệu phong phú, xác thực, bằng ngòi bút trào phúng sắc sảo. Đoạn trích Thuế máu có nhiều hình ảnh giàu giá trị biểu cảm, có giọng điệu vừa đanh thép vừa mỉa mai, chua chát.