Soạn bài Bài thơ về tiểu đội xe không kính

  • Bài thơ về tiểu đội xe không kính trang 1
  • Bài thơ về tiểu đội xe không kính trang 2
  • Bài thơ về tiểu đội xe không kính trang 3
  • Bài thơ về tiểu đội xe không kính trang 4
  • Bài thơ về tiểu đội xe không kính trang 5
  • Bài thơ về tiểu đội xe không kính trang 6
  • Bài thơ về tiểu đội xe không kính trang 7
  • Bài thơ về tiểu đội xe không kính trang 8
  • Bài thơ về tiểu đội xe không kính trang 9
BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH
(Phạm Tiến Duật)
KIẾN THỨC Cơ B
A. Giới thiệu:
1. Vài nét về tác giả:
Phạm Tiến Duật sinh năm 1941, quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ. Năm 1964, ông tốt nghiệp khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Hà Nội. Tháng 8 - 1964, ông vào bộ đội, hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn và trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chông Mĩ.
Với quan niệm “chủ yếu tìm cái đẹp từ trong những diễn biến sôi động của cuộc sông”, Phạm Tiên Duật đưa tất cả những chất liệu hiện thực của đời sống chiên trường vào thơ. Cách tiếp cận hiện thực ấy đã đem lại cho thơ Phạm Tiên Duật một giọng điệu riêng: sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, hóm hỉnh, tinh nghịch mà sâu sắc. Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” nằm trong chùm thơ của Phạm Tiến Duật được tặng giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969 - 1970, chùm thơ đã khẳng định giọng thơ riêng của ông. Sau này, bài thơ được đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” (1970) của tác giả.
Bài thơ đã sáng tạo một hình ảnh độc đáo - những chiếc xe không kính, qua đó làm nổi bật hình ảnh những người lái xe ở tuyến đường Trường Sơn hiên ngang, dũng cảm, trẻ trung, sôi nổi.
B. Đọc - Hiểu văn bản:
Đây là một bài thơ khá độc đáo.
1. Cái độc đáo đã bộc lộ ngay từ nhan đề bài thơ, một nhan đề có vẻ như dài và thừa. Có lẽ chỉ cần viết “Tiểu đội xe không kính” là đủ, là nói rõ được hiện thực phản ánh. Nhưng nhà thơ lại viết “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”. Hai chữ “bài thơ” nói lên cách khai thác hiện thực: không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính, chỉ viết về hiện thực khóc liệt của chiến tranh, mà chủ yếu là khai thác chất thơ vút lên từ hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ Việt Nam vượt lên những khắc nghiệt của chiến tranh.
Sáng tạo độc đáo nhất là hình ảnh những chiếc xe không kính.
Bài thơ mở đầu bằng một câu thơ rất lạ, giản dị như một lời nói thường:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Câu thơ như một câu văn xuôi, chẳng có gì là thơ cả. Hình ảnh thơ lại càng lạ. Xưa nay, những hình ảnh xe cộ, tàu thuyền đi vào thơ thường được “mĩ lệ hóa”, “lãng mạn hóa”, và thường mang ý nghĩa tượng trưng hơn là tả thực. Trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, chiếc xe đưa Thúy Kiều ra đi với Mã Giám Sinh cũng chỉ được nói đến một cách rất ước lệ:
Đùng đùng gió giục mây vần
Một xe trong cõi hồng trần như bay
Tế Hanh trong bài thơ “Quê hương” tả con thuyền rất lãng mạn:
Chiếc thuyền nhẹ, hăng như con tuấn mã Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang.
Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng Rướn thân trắng bao la thâu góp gió...
Với Huy Cận trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”:
Thuyền ta lái gió với buồm trăng Lướt giữa mây cao với biển bằng
Và chính Phạm Tiến Duật trong bài thơ “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây”: Anh lên xe, trời đổ cơn mưa Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ
Còn ở bài thơ này, những chiếc xe không kính là một hình ảnh thực, thực đến trần trụi. Cái nguyên nhân của nó cũng rất thực: “Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”. Hai câu thơ mở đầu bài đã thu hút sự chú ý của người đọc vì cái giọng thản nhiên rất lạ của nó. Rồi người đọc bỗng nhận ra chất thơ rất đẹp từ hình ảnh ấy: bom đạn khóc liệt của chiến tranh cũng chỉ đủ để làm cho những chiếc xe mất kính, thậm chí “Không có kính, rồi xe không có đèn - Không có mui, thùng xe có xước”... Và những chiếc xe như vậy vẫn ngang tàng băng ra chiến trường. Chính chất thơ ấy đã làm cho những chiếc xe không kính trở thành hình ảnh thơ độc đáo.
vẻ đẹp của những chiếc xe không kính thực ra được toát lên tù vẻ đẹp của hình ảnh người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn.
+ Trên chiếc xe không kính, người lính hiện ra với tư thế ung dung mà hiên ngang:
Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Xe không kính, đó là sự thiếu thốn phương tiện. Nhưng thật bất ngờ, người lính lại biến sự thiếu thốn đó trở thành một sự hưởng thụ, một cách tiếp xúc trực tiếp với không gian bên ngoài. Những chữ “nhìn” lặp đi lặp lại như một niềm sảng khoái bất tận. Không có kính, càng dễ “nhìn đất, nhìn trời” với tư thế “nhìn thẳng” thật hiên ngang. Cả một đoạn thơ diễn tả rất cụ thế’ những cảm giác của người lính lái xe:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa như ùa vào buồng lái.
Đó là những ấn tượng thực nhưng qua cách cảm nhận của tác giả, đã trở thành những hình ảnh lãng mạn.
+ Chính điều kiện thiếu thốn đã bộc lộ vẻ đẹp tinh thần của người lính. Đó là thái độ bất chấp gian khổ, hiểm nguy:
Không có kính, ừ thì có bụi Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần rửa, phì phềo châm diếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa mau khô thôi.
Những câu thơ giản dị như lời nói từ cửa miệng của người lính. “Không có kính, ừ thì...”, “chưa cần rửa”, “chưa cần thay”, điệp khúc ấy tạo nên giọng điệu ngang tàng, bất chấp. Đầu tóc mặt mũi bụi bám trắng không cần rửa, áo ướt không cần thay, và vẫn có thể “phì phèo châm điếu thuốc - Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”. Niềm vui và tiếng cười của những người lính trẻ sôi nổi, tinh nghịch cứ vút lên giữa gian khổ khắc nghiệt, giữa cả nguy hiểm chết người của chiến tranh với những “bom giật bom rung”, “bom rơi”...
Và niềm vui của họ càng nhân lên khi chung quanh họ đều là những con người lạc quan như thế:
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tối Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Cái “bắt tay” qua ô cửa kính vỡ là một sự bù đắp tinh thần cho sự thiếu thốn về vật chất. Giữa gian khó hiểm nguy, họ vẫn có niềm vui chung của những người đồng đội, của “gia đình” những người lính lái xe. Họ vẫn lạc quan băng về phía trước: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Câu thơ với năm thanh bằng và điệp ngữ “lại đi” tạo âm điệu thanh thản, nhẹ nhàng. Hình ảnh bầu trời xanh phơi phới một niềm lạc quan, yêu đời.
+ Điều làm nên sức mạnh để người lính vượt qua khó khăn gian khổ chính là tình yêu nước, là ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thông nhất Tổ quốc:
Không có kính, rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Trong bôn câu thơ có sự tương phản rõ rệt giữa vật chất và tinh thần, giữa bên ngoài và bên trong, giữa cái không có và cái có. Bom đạn kẻ thù đã tước đi của chiếc xe rất nhiều, biến chiếc xe trở thành trơ trụi đến kì lạ. Không kính, không đèn, không mui, thùng xe không còn nguyên vẹn... Nhưng có hề gì, xe vẫn băng về phía trước. Phía trước ấy là miền Nam thân yêu. Sức mạnh để chiếc xe băng mình ra trận chính là sức mạnh của trái tim người lính, một trái tim nồng nàn tình yêu nước và sôi trào ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, thông nhất Tổ quốc.
Tổng kết:
Bài thơ đã sảng tạo một hình ảnh độc đáo: những chiếc xe không kính, qua đó khắc họa nổi bật hình ảnh những người lính lái xe ở Trường Sơn trong thời kỉ kháng chiến chống Mĩ cứu nước với tư thế hiên ngang, tinh thần dũng cảm, bất chấp khó khăn nguy hiểm, niềm vui sôi nổi của tuổi trẻ và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam.
Tác giả đã đưa vào bài thơ chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở chiến trường, cùng với ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ tự nhiên, khỏe khoắn.
II. ĐỀ VĂN LUYÊN TÂP
Đề: Phân tích “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.
DÀN Ý
Mở bài:
Hoàn cảnh sáng tác: năm 1969, trong cuộc chiến đấu gian khổ của những chiến sĩ lái xe đường Trường Sơn thời chông Mĩ.
Bài thơ hay trong chùm thơ đạt giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969 - 1970, tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Tiến Duật.
Thân bài:
Từ hình ảnh “những chiếc xe không kính” độc đáo, bài thơ khắc hoạ vẻ đẹp hình ảnh, tính cách dũng cảm, lạc quan, yêu nước, giàu tình đồng chí đồng đội của những chiến sĩ lái xe.
Trên những chiếc xe bị bom đạn ác liệt của kẻ thù tàn phá, không còn kính chắn gió, không mui không đèn, thùng xe bị xước... các chiến sĩ lái xe vẫn hiên ngang, bất chấp gian khổ hi sinh, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ để giải phóng miền Nam, thông nhất Tổ quốc.
Bút pháp hiện thực, tả thực không cường điệu không mĩ lệ hoá. Ngôn ngữ thơ mộc mạc như lời nói thường ngày, như văn xuôi nhưng giàu nghệ thuật, nhịp điệu, nhạc điệu linh hoạt.
Giọng điệu sôi nổi tinh nghịch, vui tươi, có chút ngang tàng của chất lính.
Lời thơ giàu suy tưởng, câu thơ cuối toả sáng chủ đề, đặc sắc với nhãn tự trái tim.
c. Kết bài:
Bài thơ tái hiện hành trình gian khổ nhưng rất anh hùng của các chiến sĩ vận tải đoàn 559 trên tuyến lửa Trường Sơn những năm chống Mĩ .
Kết hợp giữa hiện thực hào hùng với cảm hứng lãng mạn cách mạng, âm hưởng sử thi chặng đường 30 năm chông xâm lược của dân tộc 1945 - 1975.
BÀI VIẾT GỢl ý
Là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm chông Mĩ “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước - Mà lòng phơi phới dậy tương lai” (Tó" Hữu), Phạm Tiến Duật có giọng thơ mang chất lính, khoẻ, dạt dào sức sống, tinh nghịch vui tươi, giàu suy tưởng. Bài thơ về tiểu đội xe không kính (trong chùm thơ được giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969 - 1970) được Phạm Tiến Duật viết năm 1969 là bài thơ tự do mang phong cách đó.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh những chiếc xe không kính chắn gió - hình ảnh có sức hấp dẫn đặc biệt vì nó chân thực, độc đáo, mới lạ. Xưa nay, hình ảnh xe cộ trong chiến tranh đi vào thơ ca thường được mĩ lệ hoá, tượng trưng ước lệ chứ không được miêu tả cụ thể, thực đến trần trụi như cách tả của Phạm Tiến Duật. Với bút pháp hiện thực như bút pháp miêu tả “anh bộ đội cụ Hồ thời chống Pháp” của Chính Hữu trong bài Đồng chí (1948), Phạm Tiến Duật đã ghi nhận, giải thích về “những chiếc xe không kính” thật đơn giản, tự nhiên:
Không có kính không phải vỉ xe không có kính Bom giật hom rung kính vỡ đi rồi
Bom đạn ác liệt của chiến tranh đã tàn phá làm những chiếc xe ban đầu vôh tốt, mới trở thành hư hỏng: không còn kính chắn gió, không mui không đèn, thùng xe bị xước. Hình ảnh những chiếc xe không kính không hiếm trong chiến tranh chông Mĩ trên đường Trường Sơn lửa đạn nhưng phải là một chiến sĩ, một nghệ sĩ tâm hồn nhạy cảm, trực tiếp sẵn sàng chiến đấu cùng những người lính lái xe thì nhà thơ mới phát hiện được chất thơ của hình ảnh ấy để đưa vào thơ ca một cách sáng tạo, nghệ thuật. Không tô vẽ, không cường điệu mà tả thực nhưng chính cái thực đã làm người đọc suy nghĩ, hình dung mức độ ác liệt của chiến tranh, bom đạn giặc Mĩ .
Mục đích miêu tả những chiếc xe không kính là nhằm ca ngợi những chiến sĩ lái xe. Đó là những con người trẻ trung, tư thế ung dung, coi thường gian khổ, hi sinh. Trong buồng lái không kính chắn gió, họ có cảm giác mạnh mẽ khi phải đối mặt trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài. Những cảm giác ấy được nhà thơ ghi nhận tinh tế sống động qua những hình ảnh thơ nhân hoá, so sánh và điệp ngữ:
Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa như ùa vào buồng lái.
Những câu thơ nhịp điệu nhanh mà vẫn nhịp nhàng đều đặn khiến người đọc liên tưởng đến nhịp bánh xe trên đường ra mặt trận. Tất cả sự vật, hình ảnh, cảm xúc mà các chiến sĩ lái xe trực tiếp nhìn thấy, cảm nhận đã biểu hiện thái độ bình tĩnh thản nhiên trước những nguy hiểm của chiến tranh, vì có ung dung thì mới thấy đầy đủ như thế. Các anh nhìn thấy từ “gió”, “con đường" đến cả “sao trời”, “cánh chim”. Thế giới bên ngoài ùa vào buồng lái với tốc độ chóng mặt tạo những cảm giác đột ngột cho người lái. Hình ảnh sao trời và những cánh chim “như sa như ùa vào buồng lái” thật sinh động, gợi cảm. Hình ảnh “con đường chạy thẳng vào tim” gợi liên tưởng về con đường ra mặt trận, con đường chiến đấu, con đường cách mạng.
Hiên ngang, bất chấp gian khổ, những người lính lái xe luôn lạc quan, tin tưởng vào chiến thắng. Những câu thơ lặp cấu trúc tự nhiên như văn xuôi, lời nói thường ngày thể hiện hình ảnh đẹp, tự tin, có tính cách ngang tàng:
Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Không có kính, ừ thì ướt áo Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi.
Phạm Tiến Duật từng là thành viên của đoàn 559 vận tải chiến đấu ở Trường Sơn nên chất lính, tính ngang tàng thể hiện rõ nét trong thơ. Các chiến sĩ lái xe không hề lùi bước trước gian khổ, trước kẻ thù mà trái lại “tiếng hát át tiếng bom”, họ xem đây là cơ hội để thử thách sức mạnh ý chí. Yêu đời, tiếng cười sảng khoái của họ làm quên đi những nguy hiểm. Câu thơ “nhìn nhau mặt lấm cười ha ha” biểu lộ sâu sắc sự lạc quan ấy.
Tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó là phẩm chất của người lính. Những khoảnh khắc của chiến tranh, giữa sự sông và cái chết, những người lính trẻ từ những miền quê khác nhau nhưng cùng một nhiệm vụ, lí tưởng đã gắn bó với nhau như ruột thịt, gia đình:
Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã ưề đây họp thành tiểu đội Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy Võng mắc chông chênh đường xe chạy Lại đi, lại đi trời xanh thêm.
“Trời xanh thêm” vì lòng người phơi phới say mê trước những chặng đường đã đi và đang đến. “Trời xanh thêm” vì lòng người luôn có niềm tin về một ngày mai chiến thắng. Những người lính lái xe hiên ngang, dũng cảm, lạc quan, trẻ trung sôi nổi, giàu tình đồng chí đồng đội, có lòng yêu nước sâu sắc. Lòng yêu nước là động lực tạo cho họ ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam, đánh bại giặc Mĩ và tay sai để thống nhất Tổ quốc:
Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe, thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Khổ thơ cuối vẫn giọng thơ mộc mạc, mà nhạc điệu hình ảnh rất đẹp, rất thơ, cảm hứng và suy tưởng vừa bay bổng vừa sâu sắc để hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của những chiến sĩ vận tải Trường Sơn. Bốn dòng thơ dựng hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, bất ngờ thú vị. Hai câu đầu dồn dập những mất mát khó khăn do quân thù gieo xuống, do đường trường gây ra: xe không kính, không đèn, không mui, thùng xe bị xước... Điệp ngữ “không có” nhắc lại ba lần như nhân lên những thử thách khóc liệt. Hai dòng thơ ngắt làm bôn khúc “khôỉig có kính/ rồi xe không có đènỉ Không có mui xe ỉ thùĩig xe có xước” như bốn chặng gập ghềnh, khúc khuỷu, đầy chông gai bom đạn. Hai câu cuối âm điệu đối chọi lại, trôi chảy, hình ảnh đậm nét. Đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở hướng ra tiền tuyến lớn với tình cảm thiêng liêng “uỉ miền Nam”, vì cuộc chiến đấu giành độc lập,thông nhất cho cả nước. Chói ngời, toả sáng khổ thơ, cả bài thơ là hình ảnh “trong xe có một trái tim”. Cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ anh hùng của mỗi người cầm lái tích tụ,kêt đọng ở “trái tim” gan góc, kiên cường, chứa chan tình yêu nước này. Ẩn sau ý nghĩa câu thơ “chỉ cần trong xe có một trái tim” là chân lí của thời đại chúng ta: sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí, công cụ mà là con người giàu ý chí, anh hùng, lạc quan, quyết thắng. Có thể nói cả bài thơ hay nhất là câu cuối, “con mắt của thơ”, làm bật lên chủ đề, toả sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trong bài thơ. Thiếu phương tiện vật chất nhưng những chiến sĩ vận tải Đoàn 559 vẫn hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ, nêu cao phẩm chất con người Việt Nam anh hùng như Tố Hữu đã ca ngợi:
Thiếu tất cả, ta rất giàu dũng khí Sống chẳng cúi đầu, chết vẫn ung dung Giặc muốn ta nô lệ, ta lại hoá anh hùng Sức nhân nghĩa mạnh hơn cường bạo.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một bài thơ đặc sắc tiêu biểu cho phong cách thơ Phạm Tiến Duật cũng như một số tác phẩm tiêu biểu của nhà thơ như Lửa đèn, Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây, Nhớ... Chất giọng trẻ, chất lính của bài thơ bắt nguồn từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt Nam thời chống Mĩ mà chính nhà thơ đã sống, đã trải nghiệm. Từ sự giản dị của ngôn từ, sự sáng tạo của hình ảnh chi tiết, sự linh hoạt của nhạc điệu, bài thơ đã khắc hoạ, tôn vinh vẻ đẹp phẩm giá con người, hoà nhập với cảm hứng lãng mạn cách mạng và âm hưởng sử thi hào hùng của văn học Việt Nam trong ba mươi năm chông xâm lược 1945 - 1975.
(Đặng Quốc Khánh)