Soạn bài Chuyện người con gái Nam Xương (trích Truyền kì mạn lục)

  • Chuyện người con gái Nam Xương (trích Truyền kì mạn lục) trang 1
  • Chuyện người con gái Nam Xương (trích Truyền kì mạn lục) trang 2
  • Chuyện người con gái Nam Xương (trích Truyền kì mạn lục) trang 3
  • Chuyện người con gái Nam Xương (trích Truyền kì mạn lục) trang 4
  • Chuyện người con gái Nam Xương (trích Truyền kì mạn lục) trang 5
  • Chuyện người con gái Nam Xương (trích Truyền kì mạn lục) trang 6
  • Chuyện người con gái Nam Xương (trích Truyền kì mạn lục) trang 7
  • Chuyện người con gái Nam Xương (trích Truyền kì mạn lục) trang 8
  • Chuyện người con gái Nam Xương (trích Truyền kì mạn lục) trang 9
CHUYỆN NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG
(Trích “Truyền kì mạn lục” - Nguyễn Dữ)
I. KIẾN THỨC Cơ BẢ
8
A. Giới thiệu:
Vài nét về tác giả:
Nguyễn Dữ người làng Đỗ Tùng, huyện Trường Tân, nay là huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Không rõ ông sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sông ở thế kỉ XVI, thời kì triều đình nhà Lê đã bắt đầu suy thoái, các tập đoàn phong kiến Lê, Mạc, Trịnh tranh giành quyền lực, gây ra các cuộc nội chiến kéo dài. Nguyễn Dữ học rộng tài cao. Theo Lê Quý Đôn trong “Kiến văn tiểu lục” (1777), Nguyễn Dữ thi Hương đỗ Hương công, thi Hội trúng kì đệ tam, được bổ làm tri huyện Thanh Tuyền (nay là Bình Xuyên, Vĩnh Phúc). Nhưng ông chỉ làm quan có một năm rồi xin nghỉ về nhà nuôi mẹ già và viết sách, sông ấn dật như nhiều trí thức đương thời.
“Truyền kì mạn lục” (Ghi chép tản mạn những điều kì lạ được lưu truyền) được viết bằng chữ Hán, gồm 20 truyện, khai thác từ các truyện cổ dân gian và các truyền thuyết lịch sử, dã sử của Việt Nam. Các truyện được viết bằng tẳn văn xen lẫn biền văn và thơ ca, từ khúc, cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả. Nội dung tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Tác giả lấy xưa để nói nay, lấy cái “kì” để nói cái “thực”. Nhân vật chính trong các truyện thường là:
+ Những người phụ nữ đức hạnh, khao khát một cuộc sống yên bình, hạnh phúc, nhưng các thế lực bạo tàn và cả lễ giáo khắc nghiệt lại xô đẩy họ vào những cảnh ngộ éo le, oan khuất, bất hạnh.
+ Những người trí thức có tâm huyết, bất mãn với thời cuộc, không chịu trói mình trong vòng danh lợi chật hẹp.
3. “Chuyện người con gái Nam Xương” là truyện thứ mười sáu trong số hai mươi truyện của “Truyền kì mạn lục”. Truyện có nguồn gốc từ truyện dân gian “Vợ chàng Trương”. Đây là câu chuyện về số phận oan nghiệt của một người phụ nữ có nhan sắc, có đức hạnh dưới chế độ phụ quyền phong kiến, chỉ vì một lời nói ngây thơ của con trẻ mà bị nghi ngờ, bị sỉ nhục, bị đẩy đến bước đường cùng, phải tự kết liễu đời mình để bày tỏ tấm lòng trong sạch. Cũng giông như truyện dân gian, truyện thể hiện mơ ước ngàn đời của nhân dân là “ở hiền gặp lành”, người tốt bao giờ cũng được đáp đền xứng đáng.
B. Đọc - Kiểu văn bản:
Truyện có thể chia làm 3 đoạn:
+ Đoạn 1: từ đầu đến “lo liệu như đối với cha mẹ để mình”, nói về cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương, sự xa cách vì chiến tranh và phẩm hạnh của nàng trong thời gian xa cách.
+ Đoạn 2: “Qua năm sau... nhưng việc trót đã qua rồi”, nói về nỗi oan khuất và cái chết bi thảm của Vũ Nương.
+ Đoạn 3: phần còn lại, Vũ Nương được cứu và sống ở thủy cung của Linh Phi. Nỗi oan được giải nhưng nàng quyết không trở lại trần gian.
Nhân vật Vũ Nương:
“Chuyện người con gái Nam Xương” là chuyện về nàng Vũ Nương - vợ chàng Trương Sinh: “Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp”. Nếu truyện cổ tích thường chỉ thiên về cốt truyện và hành động của nhân vật, thì ở đây, dưới ngòi bút sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Dữ, nhân vật hiện lên có đời sống, có tính cách rõ rệt hơn nhiều. Tác giả đã đặt nàng Vũ Nương vào nhiều tình huống khác nhau để khắc họa tính cách nhân vật.
Trong cuộc sống vợ chồng bình thường: chồng có tính đa nghi, nhưng nàng đã là một người vợ tốt, biết giữ đạo làm vợ, lúc nào cũng “giữ gìn khuôn phép, không từng đề lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”.
Khỉ tiễn chồng đi lính, nàng rót rượu tiễn chồng và nói những lời mà ai nghe cũng “đều ứa hai hàng lệ”. Nàng không mong vinh hiển mà chỉ mong cho chồng được bình an trở về: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Đó là mong ước hết sức bình thường của một người vợ, một người phụ nữ khao khát cuộc sông gia đình bình yên. Tình thương chồng còn thể hiện qua sự cảm thông những vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có..”, qua nỗi khắc khoải nhớ nhung: “mà mùa dưa chín quá kỉ, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú ! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Trong nỗi niềm của người vợ xa chồng, nàng cảm thông cho cả nỗi niềm của bà mẹ xa con.
Khi xa chồng, Vũ Nương là người vợ thủy chung, yêu chồng tha thiết. Tác giả đã miêu tả thật xúc động nỗi buồn thương nhớ chồng khắc khoải triền miên theo thời gian: “Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Thời gian trôi qua, không gian cảnh vật thay đổi, mùa xuân vui tươi - “bướm lượn đầy vườn”, mùa đông ảm đạm - “mây che kín núi”, còn lòng người thì chỉ dằng dặc một nỗi buồn thương.
Nàng còn là người mẹ hiền, dâu thảo. Chồng đi chinh chiến xa xôi, một mình nàng vừa nuôi con nhỏ, vừa chăm sóc mẹ chồng. Cách chăm sóc của nàng thật cảm động. Mẹ già đau ốm, “nàng hết sức thuốc thang, lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn”. Lời trôi trăng của bà mẹ chồng trước khi mất chính là một sự ghi nhận nhân cách và đánh giá cao công lao của nàng đối với gia đình nhà chồng: “Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, củng như con đã chẳng phụ mẹ”. Mẹ mất, “nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình”. Nàng làm tất cả những việc đó không phải vì trách nhiệm mà vì tình nghĩa thực sự trong lòng.
Vũ Nương là người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam truyền thông.
Khỉ bị chồng nghỉ oan:
+ Nàng một mực phân trần để chồng hiểu rõ lòng mình. Nàng nói về thân phận mình: “Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu”. Nàng nói về tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng thủy chung trong trắng của mình: “Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói”. Nàng cầu xin chồng đừng nghi oan: “Dám xin bày tỏ để cỗi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Trong những lời nói ấy, Vũ Nương đã cố gắng tìm mọi cách để hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ.
+ Vũ Nương hết lời phân trần nhưng Trương Sinh vẫn không tin, vẫn “mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi". Ngay đến cái quyền được tự bảo vệ mình, nàng cũng không có. Lời nói của nàng thâu tóm tất cả những đau khổ của một đời phụ nữ. Hạnh phúc gia đình - “cái thú vui nghi gia nghi thất”, niềm khao khát của cả đời nàng đã tan vỡ. Tình yêu cũng không còn: “hình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết hông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn”. Ngay cả nỗi đau khổ chờ chồng đến hóa đá trước đây cũng không còn có thể làm lại được nữa: “nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”.
+ Mọi cố gắng của Vũ Nương đều trở thành vô ích. Không thể giải được nỗi oan khuất, tất cả đã tan vỡ, nàng đau khổ tuyệt vọng tìm đến cái chết để bày tỏ tấm lòng trong trắng, mượn nước sông để rửa sạch tiếng nhơ oan ức. “Nàng tắm gội chay sạch, ra hến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:
- Kẻ bạc ìnệnh này duyên phận hẩm hiu, chềmg con rẫy hỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.”.
Lời than như một lời nguyền, xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và tiết sạch giá trong của nàng, của một “kẻ bạc mệnh” đầy đau khổ. Hành động tự trẫm mình của nàng là một hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự. Truyện cổ tích miêu tả việc tự tử của nàng như một hành động bột phát trong cơn tuyệt vọng: “Vũ Nương chạy một mạch ra bến Hoàng Giang đâm đầu xuống nước”. Trong tác phẩm của Nguyễn Dữ, hành động ấy có nỗi đau khổ tuyệt vọng nhưng cũng có sự tham gia của lí trí. Có thể thấy rõ điều đó qua chi tiết nàng “tắm gội chay sạch” trước khi quyên sinh, và lời nguyền của nàng rất rõ ràng, dứt khoát. Cái chết của Vũ Nương thể hiện nỗi đau khổ của nàng đã lên đến tột cùng.
Vũ Nương là một người phụ nữ xinh đẹp, thùy mị, nết na, hiền thục, lại đảm đang tháo vát, phụng dưỡng mẹ chồng rất mực hiếu thảo, một dạ thủy chung với chồng, hết lòng vun đắp hạnh phúc gia đình. Nàng xứng đáng được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, thế nhưng lại phải chết một cách oan uổng, đau đớn. Câu chuyện về Vũ Nương đã thể hiện sâu sắc số phận bi kịch của người phụ nữ trong chế độ phụ quyền phong kiến đầy bất công.
Nhân vật Trương Sinh:
Trương Sinh là “con nhà hào phú, nhưng không có học”. Trương lấy Vũ Nương nào phải là tình yêu, mà chỉ là “mến vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về”. Mầm mông bi kịch của Vũ Nương có lẽ đã bắt đầu từ những yếu tố này. Cuộc hôn nhân vốn đã không bình đẳng giữa nam và nữ, lại thêm sự cách bức giàu nghèo: Vũ Nương “vốn con kẻ khố", lấy Trương Sinh là “được nương tựa nhà giàu". Vũ Nương sẽ là nạn nhân của một chế độ đầy bất công.
Trong đời sống vợ chồng, Trương là người chồng “có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức”.
Hết chiến tranh, Trương Sinh trở về và đôi diện với nỗi mất mát: mẹ già thương nhớ con nên sinh bệnh và đã qua đời.
Trong hoàn cảnh và tâm trạng như thế, tính tình chàng càng dễ bị kích động. Lời nói ngây thơ của con trẻ đã kích động tính ghen tuông của Trương. Tác giả đã xây dựng đoạn truyện này bằng những chi tiết đầy kịch tính. Chàng bế con, “đứa trẻ không chịu, ra đến đồng, nó quấy khóc". Chàng dỗ dành, đứa con ngây thơ nói “Ớ hay ỉ Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít”. Lời nói được tách ra thành hai phần, phần sau thông tin càng “ghê gớm” hơn phần trước. Làm sao Trương Sinh khỏi bàng hoàng khi biết đứa trẻ có những hai người cha, người cha - Trương Sinh biết nói còn người cha trước kia “chỉ nín thin thít”! Sau đó lại thêm những thông tin: “một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng hao giờ hế Đản cả”. Tục ngữ có câu: “Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ”, trẻ con bao giờ cũng nói thật. Những lời nói ngây thơ của đứa con khiến người ta không thể không nghĩ đến cảnh tượng cua một đôi gian phu dâm phụ, huống chì là Trương Sinh: “Tính chàng hay ghen, nghe con nói vậy, đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được”. (Cách dẫn dắt tình tiết như vậy là rất chân thực và khéo léo.)
Tuy nhiên, điều đáng trách là cách xử sự của Trương Sinh. Con người ít học này đã hành động một cách quá nông nổi và hồ đồ. Không cần hỏi đến vợ nửa lời, vừa về đến nhà, chàng đã “la um lên cho hả giận”. Chàng không còn bĩnh tĩnh để phân tích, phán đoán, mặc kệ những lời phân trần của Vũ Nương, rồi “họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng, củng chẳng ăn thua gì”. Cách duy nhất để làm sáng tỏ mọi chuyện là giải quyết chính cái nguyên nhân gây xung đột: kể lại câu chuyện của đứa trẻ. Nhưng điều tệ hại nhất là chàng cũng không cho nàng cơ hội để minh oan khi nhất quyết “giấu không kể lời con nói”. Trương Sinh từ một người chồng độc đoán, ghen tuông mù quáng, đã trở thành một kẻ vũ phu, thô bạo: “mắng nhiếc nàng, và đánh đuổi di”. Hàng động ấy đã bức tử Vũ Nương, đã buộc người phụ nữ đáng thương ấy phải chết một cách bi thảm. Đáng giận hơn nữa là cái chết của Vũ Nương vẫn không thể làm cho Trương tỉnh ngộ để tin nàng trong sạch. Chàng vẫn “giận là nàng thất tiết” và chỉ “động lòng thương”.
Nhân vật Trương Sinh là hiện thân của chế độ phụ quyền phong kiến bất công. Sự độc đoán, chuyên quyền đã làm tê liệt lí trí, đã giết chết tình người và dẫn đến bi kịch.
Những yếu tô' kì ảo:
Truyện cổ tích “Vợ chàng Trương” kết thúc ở chỗ thằng bé chỉ cái bóng trên tường, Trương Sinh tỉnh ngộ và thấu nỗi oan của vợ. Kết thúc như thế đã là có hậu vì nỗi oan của Vũ Nương đã được giải. Nguyễn Dữ thêm vào đoạn kết, đem lại cho tác phẩm sức hấp dẫn và những giá trị mới.
4.1. Câu chuyện ở trần gian đã chấm dứt, tác giả mở tiếp câu chuyện ở thế giới thần linh. Sức hấp dẫn của đoạn truyện này, trước hết và chủ yếu, là ở những yếu tố hoang đường, yếu tô' kì ảo: Phan Lang nằm mộng thấy người con gái áo xanh, rồi thả rùa mai xanh; Phan Lang lạc vào động rùa của Linh Phi, được đãi tiệc yến và gặp Vũ Nương; câu chuyện Vũ Nương được tiên rẽ nước cứu mạng đưa về thủy cung; Phan Lang được sứ giả Xích Hỗn rẽ nước đưa về dương thế; hình ảnh Vũ Nương hiện ra sau khi Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng ở bến Hoàng Giang, lung linh huyền ảo với “một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện”, rồi sau đó “hóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất” trong chóc lát. Dẫu biết rằng đó chỉ là những yếu tô' hoang đường, nhưng người đọc vẫn cảm thấy gần gũi và chân thực bởi tác giả đã khéo kết hợp với những yếu tô' thực về địa danh, về thời điểm lịch sử, sự kiện và nhân vật lịch sử, những chi tiết về trang phục của các mĩ nhân và Vũ Nương, câu chuyện của Phan Lang về tình cảnh nhà Vũ Nương sau khi nàng mất.
4.2. Ý nghĩa của những yếu tố kì ảo:
+ Trước hết, những yếu tô' kì ảo có ý nghĩa hoàn chỉnh thêm nét đẹp của nhân vật Vũ Nương. Dù ở thê' giới khác, nàng vẫn nặng tình với cuộc đời, vẫn quan tâm đến chồng con, phần mộ tổ tiên, thương nhớ quê nhà. Khi nghe Phan Lang nói về tình cảnh quê nhà, nàng “ứa nước mắt khóc, rồi quả quyết đổi giọng mà rằng:
- Có lẽ, không thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi, để mang tiếng xấu xa. Vả chăng, ngựa Hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày”.
Và dù không còn là con người của trần gian, nàng vẫn còn đó nỗi đau oan khuất, vẫn khao khát được phục hồi danh dự: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về”.
+ Điều quan trọng hơn, là những yếu tô' kì ảo đó đã tạo nên một kết thúc có hậu cho tác phẩm, thể hiện mơ ước ngàn đời của nhân dân về lẽ công bằng: người tốt dù có trải qua bao oan khuất, cuối cùng cũng được đền trả xứng đáng, cái thiện bao giờ cũng chiến thắng.
Tuy nhiên, kết thúc có hậu vẫn không làm giảm đi tính bi kịch của tác phẩm. Vũ Nương trở về uy nghi, rực rỡ nhưng chỉ thấp thoáng, lúc ẩn lúc hiện ở giữa dòng sông. Sau lời tạ từ đầy ngậm ngùi “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa”, “trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất”. Nàng không thể trở lại trần gian, thực ra đâu phải chỉ vì cái nghĩa với Linh Phi: “Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết củng không bỏ”, mà điều chủ yếu là nàng chẳng còn gì để trở về. Đàn giải oan chỉ là một chút an ủi cho người bạc phận chứ không thể làm sông lại tình xưa. Nỗi oan đã được giải, nhưng hạnh phúc thực sự đâu có thể tìm lại được nữa. Sự dứt áo ra đi của Vũ Nương biểu hiện thái độ phủ định cõi trần thế với cái xã hội bất công đương thời, cái xã hội mà ở đó người phụ nữ không thể có hạnh phúc. Điều đó càng khẳng định niềm thương cảm của tác giả đối với số phận bi thảm của người phụ nữ trong chế độ phong kiến.
So với truyện dân gian, kết thúc truyện của Nguyễn Dữ cũng làm tăng thêm sự trừng phạt đôi với Trương Sinh. Vũ Nương không trở về, Trương Sinh càng phải cắn rứt ân hận vì lỗi lầm của mình.
Tổng kết:
“Chuyện người con gái Nam Xương” khẳng định nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam, đồng thời cảm thương cho số phận nhỏ nhoi, đầy tính chất bi kịch của họ dưới chế độ phong kiến. Đây là một áng văn hay, thành công về mặt dựng truyện, dựng nhân vật, kết hợp cả tự sự, trữ tình và kịch.
II. ĐỂ VĂN LUYỆN TẬP
Đề: Em hãy phân tích “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ để nêu bật giá trị tô" cáo xã hội và giá trị nhân đạo sâu sắc của
tác phẩm này. 	
DÀN Ý
Mở bài: giới thiệu tác giả và tác phẩm.
Thân bài:
Giá trị tố cáo xã hội của truyện thể hiện qua:
+ Cuộc đời bất hạnh của nhân vật Vũ Nương
+ Những nguyên nhân xã hội tạo nên nỗi bất hạnh đó.
Giá trị nhân đạo của truyện:
+ Đề cao phẩm giá, ca ngợi tài đức và những tình cảm cao đẹp của Vũ Nương.
+ Xót xa trước những bất hạnh của nàng, ao ước cho nàng được sống hạnh phúc.
Kết bài:
+ Đánh giá nội dung và nghệ thuật của truyện.
+ Ý nghĩa của truyện đôi với đời sống.
BÀI VIẾT GỢI ý
“Chuyện người con gái Nam Xương” là một truyện hay trong “Truyền kì mạn lục”, một tác phẩm văn xuôi bằng chữ Hán ở Việt Nam thế kỉ XVI. Truyện được Nguyễn Dữ viết trên cơ sở một truyện dân gian Việt Nam, cốt truyện và nhân vật gắn liền với một không gian cụ thể, một chứng tích cụ thể để phản ánh một vấn đề bức thiết của xã hội đương thời, đó là thân phận con người nói chung, người phụ nữ nói riêng trong xã hội phong kiến.
Truyện kể về cuộc đời và số phận bi đát của Vũ Nương, người con gái ở huyện Nam Xương nết na, thùy mị. Chồng nàng là Trương Sinh con nhà giàu có nhưng ít học, tính vốn đa nghi, đối với vợ thường phòng ngừa quá mức. Khi chồng đi lính, nàng sinh con trai và hết lòng dạy con, chăm sóc mẹ chồng. Khi giặc tan, Trương Sinh về nhà thì mẹ chồng đã qua đời, con trai đang học nói. Đứa con nhất định không chịu nhận chàng là bố vì bô' nó “đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi”. Nghe con nói, chàng ngờ vợ thất tiết, đánh đuổi nàng đi. uất ức quá, nàng gieo mình xuống sông mà chết. Được các nàng tiên cứu, nàng sông ở thủy cung cùng vợ vua Nam Hải. Một lần gặp người làng là Phan Lang cũng được tiên cứu, nàng nhờ Phan Lang về nói với chồng lập đàn giải oan cho nàng. Trong lễ giải oan, nàng hiện về và ngỏ lời từ biệt chàng vĩnh viễn.
Câu chuyện chỉ là một vụ ghen tuông bình thường trong một gia đình cũng bình thường như trăm nghìn gia đình khác, nhưng có ý nghĩa tô' cáo xã hội vô cùng sâu sắc. Một người phụ nữ nết na lấy phải một anh chồng hay ghen lại độc đoán. Chỉ vì một chuyện bông đùa với con khi xa chồng, và vì chồng nàng quá tin lời con trẻ, nghi oan cho nàng, tàn nhẫn đối với nàng khiến nàng phải tìm lấy cái chết trên bến Hoàng Giang. Nỗi oan tày đình của nàng đã vượt ra ngoài phạm vi gia đình, là một trong muôn vàn oan khốc trong xã hội vùi dập thân phận con người, nhất là người phụ nữ. Sông trong xã hội phong kiến đầy rẫy oan trái, bất công, quyền sống con người không được đảm 'bảo, người phụ nữ với số phận bèo dạt, mây trôi, có thể gặp bao nhiêu tai họa giáng xuống đầu mình vào bất cứ lúc nào vì những nguyên cớ vu vơ không thể tưởng tượng được. Rõ ràng xã hội phong kiến suy tàn đã sinh ra những Trương Sinh với đầu óc nam quyền độc đoán, đã là nguyên nhân sâu xa của những đau khổ của người phụ nữ. Vì vậy, khi sống ở thủy cung, nàng đã có lúc định trở về quê cũ. Nhưng tại lễ giải oan, mặc dù còn nặng lòng với quê hương, lỗi lầm xưa của chồng thì nàng đã tha thứ, nhưng nàng vẫn dứt áo ra đi, đành phải sống ở cõi chết: “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Chi tiết mang tính chất truyền kì này đã nói lên thái độ của Vũ Nương, của người phụ nữ đương thời đối với “nhân gian”, đối với xã hội phong kiến vì ở đó họ không tìm thấy niềm vui, không tìm thấy hạnh phúc.
Bên cạnh giá trị tố cáo xã hội phong kiến suy tàn, “Chuyện người con gái Nam Xương” còn đề cao phẩm giá của người phụ nữ. Khi còn sống, Vũ Nương là người vợ đảm dâu hiếu. Lúc sống bên chồng, nàng giữ gìn khuôn phép, không lúc nào để vợ chồng bất hòa. Lúc chồng đi lính, một mình nàng quán xuyến mọi việc, nuôi con, phụng dưỡng mẹ chồng đau ốm và khí mẹ chồng mất, nàng “lo liệu như đôi với cha mẹ đẻ mình”. Còn đối với chồng, nàng một dạ thủy chung. Sau khi đã chết, được sống ở thủy cung nguy nga, lộng lẫy, khi Phan Lang gợi đến quê hương, nàng xúc động “ứa nước mắt khóc”. Nàng giãi bày tâm sự: “Có lẽ không thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi để mang tiếng xấu xa. Vả chăng, ngựa Hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày”. Đọc đến đây, không ai không xúc động trước tấm lòng nặng nghĩa, nặng tình với quê hương bản quán của nàng. Tuy vừa được cứu sông, tuy được sông trong nhung lụa, bên cạnh có những nàng tiên tốt bụng và là ân nhân của mình, nhưng lòng nàng lúc nào cũng nhớ đến quê cha đất cũ và tâm niệm sẽ có ngày tìm về. Vũ Nương dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ lúc sống ở trần thế với cuộc sống đời thường cũng như khi làm tiên ở thủy cung lộng lẫy đều là một phụ nữ đẹp, đẹp cả về hình dáng, cả về phẩm giá, về tâm hồn. Người phụ nữ đó lẽ ra phải sống cuộc đời hạnh phúc. Nhưng tiếc thay xã hội phong kiến đã chà đạp lên cuộc đời nàng.
Như phần trên đã nói, viết “Chuyện người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã lấy cốt truyện trong dân gian. Nhưng rõ ràng với tấm lòng yêu thương con người sâu nặng, bằng bút pháp kể chuyện già dặn, với tình tiết lúc thì chân thật đời thường, lúc thì kì ảo hoang đường, ông đã xây dựng được hình tượng nhân vật vô cùng sông động, mang ý nghĩa xã hội cao. Do đó, tác phẩm của ông đã giáo dục chúng ta lòng yêu thương con người sâu sắc, lòng quyết tâm sống chiến đấu vì quyền sống và hạnh phúc của con người.
(Bài của học sinh Nguyễn Thị Lưu - “Những bài làm văn chọn lọc 9", Vũ Nho)