Soạn bài Bố của Xi - mông (trích)

  • Bố của Xi - mông (trích) trang 1
  • Bố của Xi - mông (trích) trang 2
  • Bố của Xi - mông (trích) trang 3
  • Bố của Xi - mông (trích) trang 4
  • Bố của Xi - mông (trích) trang 5
  • Bố của Xi - mông (trích) trang 6
Bố CỦA XI-MÔNG
(G. đơ Mô-pa-xãng)
KIẾN THỨC Cơ BẢN
Giới thiệu:
Vài nét về tác giả:
Guy đơ Mô-pa-xăng (1850 - 1893) là nhà văn Pháp. Ông mở đầu sự nghiệp sáng tác của mình với truyện “Viên mỡ bò” (1880). Trong khoảng 10 năm cầm bút, ông đã để lại một sự nghiệp văn học đồ sộ: trên 300 truyện ngắn, 6 tiểu thuyết và một số tác phẩm thuộc những thể loại khác.
Mô-pa-xăng tiếp tục truyền thông hiện thực trong văn học Pháp thế kỉ XIX. Ông nâng nghệ thuật truyện ngắn lên trình độ cao, nội dung cô đọng, sâu sắc, hình thức giản dị, trong sáng.
Phần đầu truyện ngắn “Bô" của Xi-mông” kể chuyện chị Blăng-sốt bị một người đàn ông lừa dối, sinh ra Xi-mông. Vì vậy, Xi-mông trở thành một đứa trẻ không có bô" dưới con mắt mọi người. Truyện bắt đầu khi Xi-mông lúc đó khoảng bảy, tám tuổi lần đầu tiên đến trường bị đám học trò chê' giễu là không có bô". Em buồn bực, lang thang ra bờ sông, chỉ muốn chết cho xong.
Đọc - Hiểu văn bản:
Bô" cục:
Căn cứ vào diễn biến của truyện, có thể chia bài văn thành bốn phấn:
+ Phần 1 (từ đầu đến “và em chỉ khóc hoài”): nỗi đau đớn, tuyệt vọng của
Xi-mông.
+ Phần 2 (từ “Bỗng một bàn tay chắc nịch” đến “cho cháu... một ông bó"”): Phi-líp gặp Xi-mông và nói sẽ cho em một ông bô".
+ Phần 3 (từ “Hai bác cháu lên đường” đến “bỏ đi rất nhanh”): Phi-líp đưa Xi-mông về nhà trả cho chị Blăng-sốt và nhận làm bô' của em.
+ Phần 4 (còn lại): Xi-mông đến trường khoe với các bạn là có bô" và tên bô em là Phi-líp.
Nỗi đau đớn của Xi-mông:
Xi-mông đau đớn vì hoàn cảnh của mình: mang tiếng là đứa trẻ không có bô", và thường bị bạn bè trêu chọc.
Nỗi đau đớn ấy được bộc lộ qua nhiều chi tiết miêu tả ý nghĩ và hành động của em:
+ Xi-mông bỏ nhà ra bờ sông, định tự tử. Nhưng cảnh thiên nhiên tưưi đẹp, â"m áp khiến em nghĩ đến nhà, nghĩ đến mẹ. Em không nghĩ đến chuyện tự tử nữa nhưng em “thấy buồn bã vô cùng, em lại khóc”. Bài kinh cầu nguyện cũng không thể làm em quên đi nỗi đau buồn.
+ Rất nhiều lần nhà văn kể về tiếng khóc và những giọt nước mắt của Xi-mông: “cảm giác uể oải thường thấy sau khi khóc”, “thấy buồn vô cùng, em lại khóc”, “người em rung lên... những cơn nức nở lại kéo đến, dồn dập, xốn xang, choán lấy em”, em “chẳng nhìn thấy thấy gì quanh em nữa mà chỉ khóc hoài”, “em trả lời, mắt đẫm lệ, giọng nghẹn ngào”, “em nói tiếp một cách khó khăn, giữa những tiếng nấc buồn tủi”, “nhảy lên ôm lấy cổ mẹ, lại khóc, vừa khóc vừa bảo”..
+ Nỗi đau đớn của Xi-mông thể hiện trong cách nói có vẻ “khó khăn” của em. Em nói không nên lời, cứ bị đứt quãng hoặc lặp đi lặp lại: “Chúng nó đánh cháu... vì... cháu... cháu... không có bô'... không có bô'”, “Không, mẹ ơi, con muốn nhảy xuống sông chết đuôi, vì chúng nó đánh con... đánh con... tại con không có bô'”. Những dấu chấm lửng và những từ lặp tạo nên giọng điệu của lời nói trong tiếng khóc nấc nghẹn ngào, tức tưởi.
Nhân vật Blăng-sốt:
Chị Blăng-sốt là “một trong những cô gái đẹp nhất vùng”. Vì một thời tuổi xuân “lầm lỡ” bị lừa dối mà chị đã sinh ra Xi-mông không có bố, nhưng về bản chất, chị vẫn là một người phụ nữ đức hạnh. Bản chất tô't đẹp của chị được thể hiện qua nhiều chi tiết:
Ngôi nhà của chị là “một ngôi nhà nhỏ, quét vôi trắng, hết sức sạch sẽ”. Hình ảnh ngôi nhà nói lên chủ nhân của nó tuy nghèo nhưng sống trong sạch, đứng đắn và nghiêm túc.
Thái độ của chị đối với khách:
Phi-líp là một người lạ, lần đầu tiên đến nhà chị Blăng-sô't. Vừa gặp chị, Phi-líp “bỗng tắt nụ cười, vì bác hiểu ra ngay là không bỡn cợt được nữa với cô gái cao lớn, xanh xao, đứng nghiêm nghị trước cửa nhà mình, như muốn cấm đàn ông bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà nơi chị đã bị một kẻ khác lừa dối”. Chị nghiêm nghị đến mức Phi-líp phải “e dè, mũ cầm tay, bác ấp úng”.
Nỗi lòng của chị khi chứng kiến tâm trạng của Xi-mông:
+ Nghe con khóc kể chuyện bị bạn đánh vì không có bố, “đôi má thiếu phụ đỏ bừng và tê tái đến tận xương tủy, chị ôm con hôn lấy hôn để, trong khi nước mắt lã chã tuôn rơi”. Chị thương con và đau đớn, tội nghiệp cho con.
+ Khi Xi-mông hỏi Phi-líp “Bác có muôn làm bô' cháu không?”, chị “hổ thẹn, lặng ngắt và quằn quại, dựa vào tường, hai tay ôm ngực”. Lần này chị đau đớn vì hổ thẹn cho chính mình.
Nhân vật Phi-líp:
+ Ân tượng đầu tiên về nhân vật Phi-líp là “một bác công nhân cao lớn, râu tóc đen, quăn” có vẻ mặt nhân hậu.
+ Mới gặp Xi-mông, nhìn thấy Xi-mông khóc, bác rất thương em, “nhìn em với vẻ nhân hậu” và nói những lời ân cần. Mới đầu, bác còn “mỉm cười” nhưng khi nghe Xi-mông giãi bày nỗi đau, bác “bỗng nghiêm lại” vì hiểu rằng mình đang đôi diện với một nỗi đau thật lớn lao và sâu sắc.
+ Trên đường đưa Xi-mông về nhà, Phi-líp nghĩ bụng có thể đùa cợt với chị Blăng-sốt vì “nghe đồn chị là một trong những cô gái đẹp nhất vùng” và tự “nhủ thầm rằng một tuổi xuân đã lầm lỡ rất có thể lỡ lầm lần nữa”.
+ Khi gặp chị Blăng-sốt, bác không còn ý nghĩ ấy nữa vì đã hiểu rằng chị là người đứng đắn.
+ Khi Xi-mông hỏi “Bác có muốn làm bố cháu không?”, tâm trạng Phi-líp rất phức tạp. Ban đầu, bác im lặng, có lẽ vì khó trả lời. Đến khi Xi-mông dọa sẽ ra sông cho chết đuối, bác mới “cười đáp như chuyện đùa: - Có chứ, bác muôn chứ !”. Bác vui lòng nhận làm bó' Xi-mông phần vì thương Xi-mông, phần vì cảm mến chị Blăng-sốt. Câu nói của bác có vẻ như đùa nhưng hành động của bác ngay sau đó nói lên điều bác nói là rất thật: “Bác công nhân nhấc bổng em lên, đột ngột hôn vào hai má em, rồi sải từng bước dài, bỏ đi rất nhanh”.
Các bạn của Xi-mông chỉ biết trêu chọc, làm cho em xấu hổ và đau đớn đến không còn muốn sống. Bác Phi-líp nhân hậu đã cứu sống Xi-mông, lại nhận làm bố của em, đem lại niềm vui cho em. Có bác Phi-líp, bé Xi-mông sống vững vàng hơn: trước sự trêu chọc của bạn bè ở trường, “Xi-mông không trả lời gì hết, và một mực tin tưởng sắt đá, em đưa con mắt thách thức chúng, sẵn sàng chịu hành hạ, còn hơn là bỏ chạy”.
Tổng kết:
Mô-pa-xăng đã thể hiện sắc nét diễn biến tâm trạng của ba nhân vật Xi-mông, Blăng-sốt và Phi-líp trong đoạn trích truyện “BỐ của Xi-mông”, qua đó nhắn nhủ chúng ta về lòng thương yểu bè bạn và mỗ rộng ra là lòng thương yểu con người.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề: Diễn biên tâm trạng của Phi-líp qua các giai đoạn: khi gặp Xi-mông, trên đường đưa Xi-mông về nhà, khi gặp chị Blăng-sốt, lúc đối đáp với Xi-mông.
DÀN Ý
A. Mở bài:
Giới thiệu nhà văn Pháp Mô-pa-xăng và đoạn trích BỐ của Xi-mông.
Giới thiệu nhân vật Phi-líp. Diễn biến tâm trạng nhân vật gắn với tình cảm nhân ái dành cho trẻ thơ và thái độ thông cảm của nhà văn với những sô' phận bất hạnh.
B. Thân bài:
Tổng:
+ Tóm lược nội dung đoạn trích.
+ Đoạn trích tập trung trọng tâm của tác phẩm, khẳng định phẩm chất tốt đẹp và nhân cách đứng đắn của những người nghèo nhưng tốt bụng, giàu tình thương.
Phân:
Hoàn cảnh đáng thương của Xi-mông: (Tâm trạng Xi-mông khi ở bờ sông)
+ Chú bé yêu đời, hiền lành nhút nhát và mặc cảm. Một chú bé có những
khát vọng bình thường như bao đứa trẻ khác.
+ Xi-mông rất dễ bị tổn thương khi nghĩ đến nhà, đến mẹ.
Diễn biến tâm trạng bác Phi-líp:
+ Khi mới gặp Xi-mông: đầu tiên là lòng thương hại một đứa trẻ yếu đuối.
+ Khi biết Xi-mông là con của chị Blăng-sốt, Phi-líp đã có những ngộ nhận về người mẹ của Xi mông.
+ Cuộc gặp gỡ với chị Blăng-sốt: lòng cảm phục trước người mẹ đã khiến Phi-líp cảm phục và trân trọng nhân cách của Blăng-sốt và thể hiện tư cách đàng hoàng, nghiêm túc.
+ Quyết định bất ngờ của Phi-líp: nhận làm bố Xi-mông, thể hiện lòng yêu quý đối với em bé bất hạnh. Phi-líp trở thành chỗ dựa tinh thần, bênh vực cho Xi-mông.
Hợp:
Đoạn trích khơi lên suy ngẫm về số phận những đứa trẻ thiếu tình thương.
Đồng thời là sự khẳng định của nhà văn vào phẩm chất, giá trị của con người.
Kết bài:
Cảm nhận về tình cảm nhân ái trong tác phẩm. Ý nghĩa thực tiễn.
BÀI VIẾT GỢI ý
Trong cuộc sông, đôi khi những trò đùa độc ác, vô ý có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng cho người khác. Nhất là khi trò đùa ấy lại nhắm vào một đứa trẻ không có bố. Chúng ta tự hỏi điều gì sẽ xảy đến với Xi-mông nếu không gặp được bác thợ rèn Phi-líp, trong đoạn trích Bô của Xi-mông, truyện ngắn đặc sắc của nhà văn hiện thực Pháp nổi tiếng thế kỉ XIX G. Mô-pa-xăng? Cuộc gặp gỡ tình cờ ấy đã thay đổi số phận của Xi-mông, đem đến cho em một người bô' thực thụ. Nhưng chính Phi-líp đã bị chinh phục bởi chú bé đáng yêu và người mẹ của em, đã có những thay đổi rất lớn trong suy nghĩ và tình cảm. Diễn biến tâm trạng nhân vật Phi-líp trong đoạn trích sẽ giúp ta cảm nhận rõ ý nghĩa nhân văn của tác phẩm.
Xi-mông là con trai của chị Blăng-sốt, người phụ nữ xinh đẹp trót bị lừa dối nên phải đơn độc nuôi con. Xi-mông đi học, bị bạn bè giễu cợt, đánh đập vì không có bôi Chú bé dại dột định tìm đến cái chết. Bác thợ rèn Phi-líp đã dẫn em về nhà và gặp mẹ. Thông cảm với hoàn cảnh của Xi-mông và chị Blăng-sốt, bác đã đồng ý làm bô' của Xi-mông.
Cuộc gặp gỡ giữa người thợ rèn tốt bụng và Xi-mông diễn ra ra thật tình cờ bên bờ sông. Lúc ấy, chú bé đã tuyệt vọng vì bị đối xử một cách tàn tệ. Đâu phải lỗi của nó ! Xi-mông cô đơn biết bao, khi những lời chế nhạo như con dao đâm thẳng vào trái tim một chú bé dễ bị tổn thương. Bởi vậy, Xi-mông đã nghĩ đến cái chết một cách dại dột. May thay, hôm ấy không phải là một ngày u ám để những ý nghĩ đen tối thành hình. Thiên nhiên đã nhân hậu biết bao trước chú bé đáng thương. Trời ấm áp, ánh mặt trời êm đềm, nước lấp lánh như gương, đã xóa đi phần nào nỗi buồn trong lòng chú bé, để chú được trở lại với bổn tính hồn nhiên trẻ con của mình. Thiên nhiên đã vỗ về chú bé, xoa dịu vết thương lòng để chú có cảm giác dễ chịu khoan khoái, thoát khỏi những lời độc ác dai dẳng của bạn bè. Dẫu bất hạnh vì thiếu vắng bàn tay chăm sóc của người cha, nhưng Xi-mông vẫn là một đứa trẻ ngoan và hiếu động. Hình ảnh em chơi đùa trên bãi cỏ, đuổi theo chú nhái con màu xanh lục và vồ hụt ba lần khiến ta nhận ra vẻ đáng yêu của em. Nhưng ngay lập tức, những cảm giác tủi nhục lại ùa đến ngay chính vào lúc em bắt được con nhái và chứng kiến cảnh con vật cố giãy giụa thoát thân. Hình ảnh ấy khiến Xi-mông liên tưởng ngay đến bản thân mình, em có khác gì con nhái đáng thương kia đâu, hẫng hụt chới với bởi sự vô tâm trong trò đùa độc ác của đám bạn. Xi-mông vô cùng nhạy cảm nên ngay vào lúc ấy “em nghĩ đến nhà, rồi nghĩ đến mẹ, và thấy buồn bã vô cùng, em lại khóc”. Đáng thương làm sao tiếng khóc của một đứa trẻ thiếu tình thương và sự chăm sóc của đầy đủ bố mẹ. Tiếng khóc ấy khiến bất cứ ai biết quan tâm đến những đứa trẻ cũng dễ mủi lòng.
Trong lúc tột cùng tuyệt vọng và đau đớn ấy, Xi-mông đã được gặp bác thợ rèn Phi-líp, một con người tốt bụng. Phi-líp được giới thiệu là “một người thợ cao lớn, râu tóc đen, quăn, đang nhìn em với vẻ nhân hậu”. Dáng vẻ của người thợ ấy có lẽ đã tạo niềm tin và chỗ dựa tin cậy để Xi-mồng thổ lộ lòng mình. Chú bé đã không ngần ngại trước người đàn ông lạ này, để tiếp tục những dòng lệ tủi cực cùng giọng nói đầy nước mắt. Câu trả lời thật thà của Xi-mông “Cháu không có bố” được khẳng định hai lần khiến người thợ Phi-líp đã đoán định được nguyên nhân sau tiếng nấc buồn tủi của chú bé Xi-mông. Bởi thế, cái mỉm cười ban đầu đã được thay thế bằng thái độ nghiêm trang vì bác hiểu đây không phải là chuyện trẻ con mà là vấn đề hệ trọng gây thương tổn cho tâm hồn của chú bé ngây thơ đáng yêu này. Bản thân bác Phi-líp đã biết mong manh về mẹ của Xi-mông, vì vậy khi quyết định đưa Xi-mông về nhà, bác đã có những suy nghĩ như bao người đã từng đàm tiếu, ngỡ rằng chị Blăng-sốt là một cô gái xinh đẹp nhưng lẳng lơ, hư hỏng. Lần mỉm cười thứ hai khiến ta thấy dường như bác ta có những suy nghĩ không đứng đắn về mẹ Xi-mông.
Khi giáp mặt với chị Blăng-sốt, chính thái độ của người mẹ Xi-mông đã khiến bác Phi-líp phải thay đổi hẳn thái độ: “bác hiểu ra ngay là không bỡn cợt được nữa với cô gái cao lớn, xanh xao, đứng nghiêm nghị trước cửa nhà mình, như muốn cấm đàn ông bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà nơi chị đã bị một kẻ khác lừa dổi”. Điều đó chứng tỏ bác Phi-líp là một con người đứng đắn và từng trải để có thể nhận ra bản chất người khác chỉ sau một cái nhìn. Một người phụ nữ đau khổ vì lỗi lầm cần được nhìn bằng con mắt cảm thông chứ không phải là đối tượng để chế giễu. Được chứng kiến nỗi đau khổ của người mẹ trước đứa con không có bô', bác Phi-líp đã thể hiện sự trân trọng trước nhân cách một người mẹ đáng kính trọng và đứa con đáng được bảo bọc. Cách hành xử của bác Phi-líp còn cho thấy lũ trẻ kia thật đáng trách khi đôì xử với Xi-mông thiếu công bằng. Chính vì vậy mà Xi-mông nhận ra ở bác Phi-líp phẩm chất của một người bô' tuyệt vời - một chỗ dựa đáng tin cậy cho cậu bé thiếu tình thương. Chú bé đã không ngần ngại khi đề nghị khá bất ngờ nhận bác Phi-líp làm bố. Trước khao khát của một chú bé cần được bảo vệ, lòng nhân hậu đã khiến bác Phi-líp không thể từ chối. Không những thế, bác Phi-líp còn bộc lộ sự xúc động trước tâm hồn trong trắng của Xi-mông: “Người thợ nhấc bổng em lên, đột ngột hôn vào hai má em, rồi sải từng bước dài, bỏ đi rất nhanh”.
Niềm vui có bô' đã giúp Xi-mông khẳng định đầy kiêu hãnh trước đám bạn, bất chấp sự lăng mạ của bọn chúng: “Bố tao ấy à, bố tao tên là Phi-líp”. Tình cảm nhân hậu của bác Phi-líp đã truyền sang cho chú bé sức mạnh và sự tự tin. Ta hiểu được ý nghĩa nhân văn cao cả của truyện ngắn qua hình ảnh của người thợ Phi-líp. Bản chất tốt đẹp của một người lao động chân chính đã giúp bác có niềm cảm thông sâu sắc trước những sô' phận bất hạnh.
Đoạn trích còn nhắc nhở chúng ta về thái độ ứng xử với người xung quanh, cần phải có một tấm lòng nhân hậu, không nên dửng dưng trước những nỗi đau khổ bất hạnh của người khác. Tình cảm nhân ái mà G. Mô-pa-xăng tạo cho bạn đọc đã làm nên sức sống lâu bền cho truyện ngắn này.