Soạn bài Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh (trích Vũ trung tùy bút)

  • Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh (trích Vũ trung tùy bút) trang 1
  • Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh (trích Vũ trung tùy bút) trang 2
  • Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh (trích Vũ trung tùy bút) trang 3
  • Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh (trích Vũ trung tùy bút) trang 4
  • Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh (trích Vũ trung tùy bút) trang 5
  • Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh (trích Vũ trung tùy bút) trang 6
  • Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh (trích Vũ trung tùy bút) trang 7
CHUYỆN CŨ TRONG PHỦ CHÚA TRỊNH
(Trích Vũ trung tùy bút của Phạm Đình Hổ)
KIẾN THỨC Cơ BẢN
A. Giới thiệu:
Vài nét về tác giả:
Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) tên chữ là Tùng Niên và Bỉnh Trực, hiệu Đông Dã Tiều, tục gọi là Chiêu Hổ, người làng Đan Loan, huyện Đường An tỉnh Hải Dương (nay là xã Nhân Quyền, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương). Ông xuất thân dòng dõi thế gia, cha làm quan đến chức Tuần phủ Sơn Tây dưới triều Lê Cảnh Hưng. Phạm Đình Hổ sinh vào thời buổi đất nước loạn lạc nên muốn ẩn cư. Dưới triều Tây Sơn, ông lánh về quê sông đời hàn nho. Đến triều Nguyễn, vua Minh Mạng vời ông ra làm quan. Ông đã mấy lần từ chức, rồi lại bị triệu ra. Ông để lại nhiều công trình biên soạn, khảo cứu có giá trị thuộc đủ các lĩnh vực triết học, lịch sử, địa lí, ngôn ngữ và văn học, tất cả đều bằng chữ Hán.
Di sản văn chương của ông tương đối lớn và rất có giá trị. về văn, có hai tập là “Vũ trung tùy bút” và “Tang thương ngẫu lục” (viết chung với Nguyễn Án), về thơ, có hai tập “Đông Dã học ngôn thi tập” và “Tùng cúc liên mai tứ hữu”.
“Vũ trung tùy bút” {tùy bút viết trong những ngày mưa) là một tác phẩm đặc sắc viết bằng chữ Hán, viết khoảng đầu đời Nguyễn (đầu thế kỉ XIX). Tác phẩm gồm 88 mẩu chuyện nhỏ, viết theo thể tùy bút (theo cách hiểu của tác giả là ghi chép tùy hứng, tản mạn, gặp gì ghi nấy, nhớ đâu ghi đó, không cần hệ thống, kết cấu gì cả). Ông ghi lại đủ chuyện cổ kim. Có khi là chuyện người thực việc thực đương thời, có khi là chuyện xa xưa thuộc truyền thuyết, cổ tích hay lời ngoa truyền... ông bàn về các thứ lễ nghi, phong tục, tập quán..., ghi chép những việc xảy ra trong xã hội lúc đó, viết về những nhân vật lịch sử, di tích lịch sử, khảo cứu về địa dư, chủ yếu là vùng Hải Dương quê ông. Tất cả những nội dung ấy đều được trình bày một cách giản dị, sinh động và hấp dẫn. Tác phẩm chẳng những có giá trị văn chương đặc sắc mà còn cung cấp những tài liệu quý về sử học, địa lí, xã hội học.
“Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” là một trong 88 mẩu chuyện của “Vũ trung tùy bút”, kể việc chúa Trịnh Sâm ham mê tuần du triền miên, hết ngự li cung Tây Hồ lại đến núi Tử Trầm, Dũng Thúy... Biết được ý chúa thích chơi “trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch, và chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian”, bọn hoạn quan thừa gió bẻ măng gây ra không biết bao nhiêu tai họa cho dân.
B. Đọc - Hiểu văn bản:
Cảm xúc chủ đạo trong bài văn là thái độ phê phán đốì với thói ăn chơi xa xỉ và tệ nhũng nhiễu nhân dân của vua chúa và quan lại thời Lê - Trịnh.
Đoạn thứ nhất (từ đầu đến “kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”) vạch trần thói ăn chơi xa xỉ, vô độ của chúa Trịnh và các quan lại hầu cận trong phủ chúa bằng nhiều sự việc và chi tiết gây ấn tượng mạnh.
Chúa “thích đi chơi ngắm cảnh đẹp, thường ngự các li cung trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thúy” nên cho xây dựng cung điện, đình đài ở các nơi. “Việc xây dựng đình đài cứ làm liên tục”, hao tốn không biết bao nhiêu tiền của và công sức.
Những cuộc dạo chơi của chúa ở Tây Hồ được miêu tả rất tỉ mỉ:
+ Diễn ra thường xuyên “mỗi tháng ba bôn lần”.
+ Huy động rất đông người hầu hạ: “binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ”, các nội thần, quan hộ giá, bọn nhạc công...
+ Bày đặt nhiều trò giải trí lố lăng và tôn kém:
Giả trò mua bán: “các nội thần thì đều bịt khăn, mặc áo đàn bà, bày bách hóa chung quanh bờ hồ để bán”, để “thuyền ngự đi đến đàu thì các quan hỗ tụng đại thần tùy ý ghé vào bờ mua bán các thứ như ở cửa hàng trong chợ”.
Bố trí dàn nhạc khắp nơi để tấu nhạc làm vui: “bọn nhạc công ngồi trên gác chuông chùa Trấn Quốc, hay dưới bóng cây bến đá nào đó, hòa vài khúc nhạc”.
Chúa cho tìm thu, thực chất là cướp đoạt, những của quý trong thiên hạ như những loài chim quý, thú lạ, những cây cổ thụ, những hòn đá hình dáng kì lạ cổ quái, chậu hoa cây cảnh... về tô điểm cho nơi ở của chúa.
Tác giả tập trung miêu tả kĩ để người đọc thấy được việc đưa một cây đa to về phủ chúa phải mất bao công phu. Trước hết, ông miêu tả cây đa để gây ấn tượng: “cây đa to, cành lá rườm rà”, “giống như một cây cổ thụ mọc trên đầu non hốc đá, rễ dài đến vài trượng”. Cây đa ấy “phải một cơ binh mới khiêng nổi”. Việc di chuyển cây đa mới thật độc đáo, bên cạnh một cơ binh khiêng cây, còn có “bốn người đi kèm, đều cầm gươm, đánh thanh la đốc thúc quân lính khiêng đi cho đều tay”. Lại còn bao nhiêu công phu “từ bên bắc chở qua sông đem về” !
Từ cảnh ngự thuyền đi chơi trên hồ đến cảnh giả trò mua bán, cảnh hoà nhạc, cảnh khiêng cây đa, tất cả đều được miêu tả cụ thể, chân thực và khách quan. Tự thân những chi tiết và sự việc ấy đã nói lên rất nhiều thói xa xỉ vô độ của chúa Trịnh và bọn quan lại hầu cận trong phủ.
Đến cuối đoạn, tác giả mới xen vào một lời bình gián tiếp: “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”.
Cảnh được miêu tả là cảnh thực ở những khu vườn rộng, đầy “trân cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch, và chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian”, “lại được điểm xuyết bày vẽ ra hình núi non bộ trông như bến bể đầu non”. Cảnh đẹp nhưng âm thanh lại gợi cảm giác ghê rợn trước một cái gì đau thương, tan tác. Tác giả mượn lời “kẻ thức giả” để nhận xét đây là “triệu bất tường”, là điềm gở. Nó như báo trước sự suy vong tất yếu của một triều đại chỉ lo ăn chơi hưởng lạc trên mồ hôi, nước mắt và cả xương máu của nhân dân.
Đoạn còn lại viết về bọn quan lại hầu cận trong phủ chúa đã “nhờ gió bẻ măng”, nhũng nhiễu vơ vét của dân.
Thủ đoạn của chúng thật bỉ ổi: dò xem nhà nào có vật quý thì đến cướp đi và buộc tội “tàng trữ” vật cung phụng, theo kiểu “vừa ăn cướp, vừa la làng”. Khổ chủ vừa bị cướp của, vừa phải mất tiền để thoát tội. Có nhà vừa bị mất của, lại vừa bị “phá nhà hủy tường”. Có nhà phải tự tay “đập bỏ núi non bộ, hoặc phá bỏ cây cảnh để tránh khỏi tai vạ”. Tất cả những việc ấy cho thấy bản chất của bọn hoạn quan. Bọn chúng khéo xu nịnh nên được nhà chúa sủng ái, ỷ thế nhà chúa mà ngang nhiên hoành hành, tác oai tác quái, gây bao tai vạ cho nhân dân.
Để tăng thêm sức mạnh tố cáo, tác giả kể thêm một sự việc của chính gia đình mình: bà mẹ đã phải sai chặt đi một cây lê và hai cây lựu quý có hoa thơm quả đẹp trong vườn nhà mình để tránh tai họa. Những địa danh “phường Hà Khẩu”, “huyện Thọ Xương” càng làm tăng thêm tính chân thực và vì thế, sức thuyết phục càng lớn.
Bài văn được viết theo thể tùy bút. Cũng là văn xuôi, nhưng thể tùy bút khác với truyện.
Truyện thuộc loại văn tự sự, phản ánh cuộc sống thông qua số phận con người cụ thể. Yếu tố cơ bản của truyện là cốt truyện, và gắn liền với nó là hệ thông nhân vật. Để triển khai cốt truyện và xây dựng hệ thống nhân vật, truyện phải có một hệ thống chi tiết nghệ thuật phong phú, đa dạng bao gồm các sự kiện, xung đột, chi tiết miêu tả nội tâm, ngoại hình, khắc họa tính cách nhân vật... Truyện chấp nhận cả những chi tiết tưởng tượng, hoang đường.
Tùy bút là thể văn xuôi thiên về trữ tình. Tùy bút nhằm ghi chép những người thực, việc thực, qua đó tác giả bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ, nhận thức, đánh giá của mình về con người và cuộc sông. Ngòi bút của nhà văn tuỳ theo cảm hứng, có thể tản mạn, không cần tuân theo một hệ thống, kết cấu nào cả, nhưng vẫn nhát quán theo một tư tưởng, một cảm xúc chủ đạo. Lối ghi chép ở tùy bút giàu chất trữ tình hơn các loại văn ghi chép khác như bút kí, kí sự.
Tổng kết:
Bằng thể loại văn tùy bút ghi chép tùy hứng những sự việc một cách cụ thể, chăn thực và sinh động, “Chuyện củ trong phủ chúa Trịnh” của Phạm Đình Hổ đã giúp chúng ta hiểu về đời sống xa hoa vô độ của chúa trịnh và sự nhũng nhiễu của quan lại thời vua Lê chúa Trịnh.
ĩĩ. ĐỂ VĂN LUYỆN TẬP
Đề: Tình trạng đất nước ta vào thời vua Lê - chúa Trịnh cuối thế kỉ XVIII qua đoạn trích “Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh” (trích “Vũ trung tùy hút” của Phạm Đình Hổ>.
DÀN Ý
Mở bài:
+ Giới thiệu tác phẩm Vũ trung tùy hút của Phạm Đình Hổ.
+ Đoạn trích: tình trạng đất nước vào thời vua Lê - chúa Trịnh cuối thế kỉ
XVIII và thái độ phê phán của tác giả.
Thân bài:
Tổng:
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh: bộ mặt của giới cầm quyền phong kiến thời Lê - Trịnh được kể lại một cách sinh động, chân thực.
Ngôn ngữ miêu tả và kể chuyện của tác giả không che giấu thái độ căm ghét những kẻ gây hại cho nhân dân.
Phân:
Những thú xa hoa của chúa Trịnh Sâm: tô vẽ phô trương vẻ hào nhoáng, thú chơi phong lưu, sính đàn ca nhã nhạc. Ngôn ngữ miêu tả của Phạm Đình Hổ tỉ mỉ chi tiết giúp người đọc hình dung đầy đủ.
Bọn cận thần “nhờ gió bẻ măng”: lời kể cụ thể từng vụ việc và thủ đoạn bất lương của bọn tay chân nhà Chúa.
Tình cảnh khôn khổ của nhân dân: nhà văn ghi lại câu chuyện có thực kể lại việc xảy ra trong nhà mình.
Thái độ bất bình của nhà văn qua giọng kể.
Hợp:
Nghệ thuật tùy bút đem lại cái nhìn sinh động về bọn người quyền quý cũng như nỗi khổ của nhân dần.
Giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm
Kết bài:
Nêu cảm nhận sâu sắc của bản thân.
BÀI VIẾT GỢl ý
Tác phẩm Vũ trung tùy bút (tuỳ bút viết trong những ngày mưa) của danh sĩ Phạm Đình Hổ là tập bút kí sinh động về xã hội Việt Nam thời Lê - Trịnh, vào những năm cuối thế kỉ XVIII. Mặc dù được viết theo thể tuỳ bút khá tự do, nhưng những điều được ghi lại trong đó đã chứa đựng một giá trị hiện thực rất sắc sảo, đồng thời bộc lộ rõ cái nhìn phê phán của tác giả với thói xa hoa vô độ của vua chúa phong kiến. Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh là một trong những câu chuyện được kể lại trung thực giúp ta hiểu về bộ mặt thật xấu xa của tập đoàn chúa Trịnh được che đậy trong lớp vỏ vàng son hào nhoáng.
Phạm Đình Hổ (1768 - 1839) là người nổi tiếng với biệt danh Chiêu Hổ, là người am hiểu văn hoá nếp sống của Thăng Long - Kẻ Chợ. Vốn dòng dõi quan lại đời Lê nên ông có điều kiện hiểu rõ những kẻ thuộc giới quý tộc kinh kì. Những điều nhà văn ghi lại tưởng như là sự ghi nhận về thời vô sự - bôn phương yên hưởng thái bình. Mỉa mai thay, thực trạng lại là một bức tranh với sắc chói chang của mũ mão cân đai rỡ ràng đôi lập với thực tại tinh thần tối sầm những cảm giác bất an trong đời sông dân lành. Thực trạng ấy từng được mô tả trong Thượng kinh kí sự của Hải Thượng Lãn Ông, Tang thương ngẫu lục của danh sĩ Nguyễn Án. Nhưng câu chuyện của Chiêu Hổ vẫn có sức hấp dẫn riêng.
Thời gian, khung cảnh câu chuyện được thuật lại tỉ mỉ. Trong bôi cảnh trong nước vô sự, việc an hưởng thái bình, du ngoạn cảnh đẹp của một ông chúa có lẽ chẳng có gì đáng nói. Việc ăn chơi của Chúa đáng nói ở chỗ “đình đài được làm liên tục”. Hãy so sánh với những gì trong phủ Chúa được Hải Thượng Lãn Ông mô tả: “nơi nào cũng lâu đài, đình các, rèm châu cửa ngọc, áng nước mây loà, suốt cõi toàn hoa, hoa cỏ kì lạ, gió thoảng hương trời, thú đẹp chim quý, nhảy nhót bay hót, giữa đất bằng nhô lên một ngọn núi cao, cây to bóng mát, nhịp cầu sơn vẽ bắc qua lạch nước quanh co, lại có lan can làm toàn bằng đá màu...”. Ngoài cung cũng là cả một sự xa xỉ cầu kì như vậy. Chúa thưởng ngoạn cảnh đẹp kéo theo cả một đội quân tiền hô hậu ủng với binh lính, nội thần, các quan hỗ tụng đại thần... Quang cảnh phô bày qua sự mô tả của tác giả khiến người đọc hình dung một sự sắp đặt nhằm làm đẹp lòng Chúa của đám nịnh thần mặt trắng, đồng thời hiện rõ tính chất phồn vinh giả tạo của cuộc sống kinh kì. Thức ngon sẵn bày, đàn hay sáo ngọt. Chỉ cần vài cảnh đã cho thấy sự xa hoa tráng lệ xứng đáng với tiếng tăm Thịnh Vương - quyền hành dưới mà trên cả hoàng đế. Đàng sau những vẻ phô trương hào nhoáng đó là sự lô' bịch hiện hình: bọn nội thần mặc quần áo đàn bà đứng bán hàng, cảnh đi chợ của các quan như trò chơi trẻ con cho thấy sự phồn vinh giả tạo. Nhằm thoả mãn nhu cầu ích kỉ của mình, “bao nhiêu những loài trần cầm dị thú, cổ mộc, quái thạch và chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian, Chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì”. Quyền lực, xa xỉ, ngang ngược, hổng hách là những gì chúng ta có thể hình dung về ông Chúa nổi tiếng ăn chơi này. Tác giả đã bình bằng một điềm báo: “Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hót ran khắp bốn bề, hoặc nửa đềm ồn ào như trận mưa sa gió táp, vỡ tổ tan đàn, kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”. Câu văn miêu tả vẽ ra viễn cảnh u ám, đầy âm khí, như kết đọng nỗi oán hờn của dân gian, chứa đựng ý nghĩa cảnh báo sự sụp đổ không thể tránh khỏi của một vương triều quái thai mục ruỗng.
“Thượng bất chính, hạ tắc loạn” (Trên không nghiêm, dưới sinh loạn) ! Quả thật, những gì Phạm Đình Hổ diễn tả tiếp nôi về hành động của bọn tay chân nhà Chúa đục nước béo cò, “nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm”. Nhà dột từ nóc, bởi thế người đọc không nghi ngờ gì về bản chất thối nát của vương triều Lê - Trịnh. Tất yếu, những hành vi của chúng gây tác hại cho dân lành lương thiện như thế nào: bị vu oan, hãm hại cửa nát nhà tan. Không phải là cách nói ví von mà Phạm Đình Hổ còn kể lại câu chuyện sinh động: “Hòn đá hoặc cây cối gì to lớn quá thì thậm chí phải phá nhà hủy tường để khiêng ra”. Người giàu có của bỗng thành miếng mồi ngon cho bầy diều quạ hung dữ mượn danh Chúa đục khoét, hành hạ. Không những thế, người kể chuyện còn đưa ra bằng chứng ngay trong gia đình mình như xác minh tính chân thực của câu chuyện kể: “Nhà ta ở phường Hà Khẩu, huyện Thọ Xương, trước nhà tiền đường có trồng một cây lê, cao vài mươi trượng, lúc nở hoa trắng xoá, thơm lừng; trước nhà trung đường cũng trồng hai cây lựu trắng, lựu đỏ, lúc ra quả trông rất đẹp, bà cung nhân ta sai chặt đi cũng vì cố ấy”. Bản thân gia đình tác giả thuộc hàng quý tộc chốn cung đình, vậy mà còn trở thành nạn nhân của Chúa Trịnh. Ta chứng kiến cái đẹp bị hủy hoại bởi lẽ không cái đẹp nào có thể được phát triển tự nhiên dưới ách bạo quyền. Câu chuyện kết thúc ở đó, nhưng giá trị tô' cáo đã thật đầy đủ, không cần nói thêm, viết thêm.
Một chuyện cũ viết lại qua lời kể chuyện, miêu tả sinh động của Phạm Đình Hổ đã giúp ta hình dung tất cả sự thối nát tàn bạo của triều đình vua Lê - chúa Trịnh và hiểu rõ nguyên nhân sụp đổ của nó. Khi những kẻ cầm quyền chỉ biết vun vén bản thân, bỏ mặc nhân dân, chắc chắn sẽ mất lòng dân, lời ta thán của dân chúng sẽ biến thành sức mạnh khởi nghĩa lật nhào chế độ. Có lẽ, đó còn là lời nhắc nhở, cảnh tỉnh của Chiêu Hổ cho triều đại nhà Nguyễn đương thời. Ông đã vạch đúng bản chất chung của giai câp phong kiến, qua những trang tùy bút đặc sắc.
Vũ trung tùy bút là tập kí họa về thời đại qua tài hoa của cây bút Phạm Đình Hổ. Dù thời ấy đã qua, nhưng những câu chuyện trong đó vẫn còn giá trị tư liệu, giá trị lịch sử và văn chương. Người đọc có thể nhận thấy sức mạnh hủy diệt của thế lực đồng tiền khi song hành với quyền lực và phù hoa làm hủy hoại nhân tính con người đến mức nào !