Soạn bài Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ

  • Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ trang 1
  • Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ trang 2
  • Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ trang 3
  • Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ trang 4
  • Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ trang 5
  • Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ trang 6
  • Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ trang 7
  • Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ trang 8
  • Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ trang 9
  • Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ trang 10
KHÚC HÁT RU NHỮNG EM BÉ LỚN TRÊN LƯNG MẸ
(Nguyễn Khoa Điềm)
KIẾN THỨC Cơ B
A. Giới thiệu:
Vài nét về tác giả:
Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943, quê Thừa Thiên - Huế, trong một gia đình trí thức cách mạng. Sau khi tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, Nguyễn Khoa Điềm về lại quê hương tham gia cuộc chiến đấu chông Mĩ. Ông bắt đầu làm thơ từ năm 1968, và là một nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm kháng chiến chông Mĩ. Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, dồn nén xúc cảm, thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia vào cuộc chiến đấu của nhân dân. Tác phẩm chính: tập thơ Đất ngoại ô (1972), trường ca Mặt đường kliát vọng (được hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974).
Bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ được Nguyễn Khoa Điềm sáng tác năm 1971, khi đang công tác ở chiến khu miền tây Thừa Thiên. Sau này, bài thơ được in trong tập Đất và khát vọng (1984).
Bài thơ ra đời vào những năm tháng quyết liệt của kháng chiến chông Mĩ. Giai đoạn này, cuộc sông của cán bộ và nhân dân ta trên các chiến khu rất gian nan, thiếu thôn. Ớ những chiến khu miền rừng núi, cán bộ và nhân dân ta vừa bám rẫy, vừa bám đất tăng gia sản xuất, vừa sẵn sàng chiến đấu bảo vệ căn cứ.
Tác phẩm thể hiện tình yêu con và ước vọng của người mẹ dần tộc Tà-ôi, qua đó bày tỏ lòng yêu quê hương đất nước và khát vọng tự do của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chông Mĩ.
B. Đọc - Hiểu văn bản:
Bài thơ là lời hát ru những em bé dân tộc Tà-ôi “lớn trên lưng mẹ” ở vùng chiến khu Trị - Thiên trong thời kì cuộc chiến tranh chông Mĩ đang diễn ra quyết liệt. Lời hát ru có ba khúc, mỗi khúc đều mở đầu bằng hai câu “Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi - Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ” và kết thúc bằng lời ru trực tiếp của người mẹ: “Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi - Mẹ thương a-kay... - Con mơ cho mẹ... - Mai sau con lớn...”. Trong từng khúc, lời ru của người mẹ được ngắt nhịp đều đặn ở giữa dòng thơ. Cách lặp đi lặp lại, cách ngắt nhịp như thế tạo nên một giọng điệu trữ tình đặc sắc. Đó là âm điệu dìu dặt, nhịp nhàng, êm ái của lời ru, thể hiện tình cảm yêu thương, trìu mến thiết tha của người mẹ.
Hình ảnh người mẹ Tà-ôi:
Trong bài thơ, hình ảnh người mẹ được miêu tả gắn với từng hoàn cảnh, từng công việc cụ thể.
+ Đoạn một: người mẹ với công việc giã gạo nuôi bộ đội kháng chiến:
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời:
Hình ảnh thơ rất gợi cảm: nhịp chày, vai mẹ, lưng mẹ đưa giấc ngủ của em theo nhịp giã gạo. Giọt mồ hôi và “vai mẹ gầy” làm nổi bật sự vất vả trong công việc của người mẹ.
+ Đoạn hai: người mẹ với công việc lao động sản xuất trên chiến khu:
Mẹ đang tỉa bắp trên núi Ka-lưi Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ
Sự tương phản giữa “lưng núi” và “lưng mẹ” gợi ra rất rõ sự vất vả của người mẹ lao động giữa núi rừng mênh mông.
Đặc biệt trong đoạn này có hai câu thơ rất gợi cảm:
Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng
“Mặt trời của mẹ” là một ẩn dụ độc đáo, có ý nghĩa sâu sắc. Con là Mặt Trời của mẹ. Con là nguồn hạnh phúc ấm áp vừa gần gũi vừa thiêng liêng của đời mẹ. Chính con đã góp phần sưởi ấm lòng mẹ, đã nuôi giữ lòng tin yêu và ý chí của mẹ trong cuộc sống.
+ Đoạn ba: người mẹ với công việc tham gia chiến đấu:
Mẹ đang chuyển lán, mẹ đi đạp rừng Thằng Mĩ đuổi ta phải rời con suối Anh trai cầm súng, chị gái cầm chông Mẹ dịu em di để giành trận cuối Từ trên lưng mẹ, em đến chiến trường Từ trong đói khổ, em vào Trường Sơn
Giặc Mĩ càn đến, mẹ phải “đạp rừng”, “chuyển lán” để di chuyển lực lượng; mẹ phải cùng với các anh trai, chị gái tham gia chiến đấu bảo vệ căn cứ. “Mẹ dịu em đi để giành trận cuối”, mẹ xông pha chiến trường, mẹ vào tận Trường Sơn. Hai chữ “trận CUÔÌ” mang theo cả một niềm tin vào thắng lợi cuối cùng.
Qua ba đoạn thơ, qua những hoàn cảnh và công việc cụ thể, người đọc nhận ra tấm lòng người mẹ trên chiến khu. Người mẹ ấy lặng lẽ, bền bỉ, quyết tâm trong công việc kháng chiến, từ công việc lao động sản xuất đến công việc chiến đấu. Người mẹ ấy thắm thiết yêu con, gắn bó với buôn làng, quê hương, cách mạng, khát khao đất nước được độc lập tự do.
Mối liên hệ giữa công việc người mẹ đang làm với tình cảm, ước mong của mẹ qua các khúc ru:
Cuối mỗi đoạn thơ đều kết thúc bằng lời ru trực tiếp của người mẹ. Mỗi khúc ru có bốn câu, nội dung liên hệ chặt chẽ và tự nhiên với công việc người mẹ đang làm được nói đến trong đoạn.
+ Đoạn một: Mẹ đang giã gạo nuôi bộ đội nên mẹ ru:
- Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần Mai sau con lớn vung chày lún sân...
+ Đoạn hai: Mẹ đang tỉa bắp trên nương nên mẹ ru:
Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi Mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói
Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi...
+ Đoạn ba: vì đang tham gia chiến đấu nên mẹ ru:
Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi Mẹ thương a-kay, mẹ thương đất nước Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn làm người Tự do...
Ba khúc ru có câu trúc lặp đi lặp lại vừa tạo giọng điệu trữ tình tha thiết, vừa mở rộng và xoáy sâu vào thể hiện tấm lòng của người mẹ.
Những điệp khúc “Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi”, “Mẹ thương a-kay”, “Con mơ cho mẹ”, “Mai sau con lớn” nhấn mạnh tấm lòng của người mẹ tha thiết yêu thương con. Mẹ mong cho con ngủ ngoan và có được những giấc mơ đẹp, mẹ mong con mau lớn.
Bên cạnh tình thương con, còn thấy “mẹ thương bộ đội”, “mẹ thương làng đói”, “mẹ thương đất nước”. Với những tình cảm ấy, tấm lòng người mẹ càng trở nên lớn lao, cao cả.
Với cụm từ “con mơ cho mẹ...”, tác giả đã diễn tả thật tự nhiên và sâu sắc ước mong của người mẹ. Mẹ không trực tiếp bộc lộ mà gửi trọn niềm ước mong của mình vào giấc mơ của đứa con. Mẹ mong “hạt gạo trắng ngần” để nuôi bộ đội. Mẹ mong “hạt bắp lên đều” để làng khỏi đói. Mẹ mong “được thấy Bác Hồ”, mong đến ngày được thấy nước nhà tự do độc lập.
Qua ba khúc ca, có thể thấy tình cảm, khát vọng của người mẹ càng lúc càng lớn rộng, càng hòa vào công cuộc kháng chiến gian khổ, anh hùng của quê hương, đất nước.
c. Tổng kết:
Trong gian nan, vất vả của cuộc sống kháng chiến, người mẹ ở chiến khu càng dành cho con tình yêu thương thắm thiết, càng ước mong con mau lớn khôn khỏe mạnh, trở thành công dân của một đất nước tự do. Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện tình yêu thương con gắn với lòng yêu quê hương đất nước, với tinh thần chiến đấu của người mẹ miền tây Thừa Thiên bằng những khúc ru nhịp nhàng, mang giọng điệu ngọt ngào, trìu mến. Từ hình ảnh và tấm lòng người mẹ Tà-ôi, nhà thơ đã thể hiện tình yêu què hương đất nước thiết tha, ý chí chiến đấu cho độc lập tự do và khát vọng thống nhất nước nhà của nhân dân ta trong thời kì kháng chiến chống Mĩ.
ĐÊ VĂN LUYỆN TẬP
Đề: Bài thơ “Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã “thể hiện tình yêu thương con gắn với lòng yêu nước, với tinh thần chiến đấu của người mẹ miền tây Thừa Thiên bằng những khúc ru nhịp nhàng, mang giọng điệu ngọt ngào trìu mến”.
Hãy làm rõ nhận định trên.
DÀN Ý
Mở bài:
Giới thiệu hoàn cảnh ra đời của bài thơ: bô'i cảnh cuộc kháng chiến chống
Mĩ, tại chiến khu tây Thừa Thiên.
Nêu nhận định: vẻ đẹp hình tượng người mẹ Tà-ôi.
Thân bài:
Tổng:
Hình tượng người mẹ trong văn học cách mạng: vẻ đẹp truyền thống gắn với tinh thần thời đại chiến đấu.
Cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm: vẻ đẹp gắn với ý nghĩa lời ru, hướng đến tình cảm với cách mạng, với đất nước.
Phân:
Hình ảnh người mẹ trong những công việc ở chiến khu:
Người mẹ với công việc thường ngày: giã gạo, tỉa bắp... nhưng tính chất lại cao cả tự nguyện ở ý thức góp phần vào công cuộc kháng chiến chông Mĩ.
Người mẹ chuyển lán, đạp rừng, địu em đi để giành trận cuối: gắn với công việc cách mạng thể hiện tinh thần chiến đấu, ý chí tất thắng.
Qua hình ảnh còn giúp người đọc hình dung cuộc sông tại căn cứ địa cách mạng tây Thừa Thiên còn nhiều gian khổ thiếu thốn nhưng người dân tại chiến khu luôn bền lòng vững chí theo cách mạng.
Vẻ đẹp được khắc hoạ trong những câu thơ giàu sức gợi cảm, đậm nét hiện thực.
Tình cảm, ước mong của mẹ qua các khúc ru:
+ Tình thương vô bờ bến kết đọng trong âm điệu lời ru cũng như hình ảnh giàu sức gợi cảm {Lưng đưa nôi và tim hát thànli lời, mặt trời của mẹ em nằm trên lưng..Ỵ
+ Tình thương còn gắn với mơ ước đẹp đẽ về sự trưởng thành vững chãi của a-kay.
+ Tình cảm có sự phát triển tự nhiên, giản dị mà cao cả: thương a-kay - thương hộ đội - thương làng đói - thương đất nước. Đó cũng chính là vẻ đẹp kết tinh của tình yêu nước.
Tinh thần chiến đấu và niềm tin tất thắng:
+ Gắn với quyết tâm trong những hành động thiết thực phục vụ chiến đấu.
+ Bài thơ khép lại với mơ ước thật đẹp: được thấy Bác Hồ, niềm tin tưởng vào sự tất thắng của cách mạng, Bắc Nam sum họp, nước nhà thống nhất.
Hợp:
Giá trị nhân văn của hình tượng: vẻ đẹp người mẹ Tà-ôi cũng là vẻ đẹp của nhân dân miền Nam trong cuộc kháng chiến chông Mĩ.
Mối quan hệ gắn kết giữa cán bộ với đồng bào qua suy ngẫm và cảm xúc của nhà thơ. Tình cảm thương yêu, trìu mến, trân trọng, cảm phục của tác giả với con người - nhân dân, với sự tất thắng của cuộc chiến đâu chông Mĩ.
Kết bài:
Ý nghĩa và sức sống của tác phẩm. Cảm nhận của bản thân về vẻ đẹp của hình tượng.
BÀI VIẾT GỢI ý
Bài thơ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm ra đời ngay tại chiến khu Trị - Thiên, trong những ngày kháng chiến chống Mĩ đang dần đến thắng lợi nhưng vẫn còn vô cùng gian khổ. Nhà thơ đã tận mắt chứng kiến hình ảnh những bà mẹ Tà-ôi giã gạo nuôi bộ đội đánh Mĩ, để cảm xúc từ hiện thực thăng hoa thành những vần thơ có sức lay động mãnh liệt. Bài thơ “thể hiện tình yêu thương con gắn với lòng yêu nước, với tinh thần chiến đấu của người mẹ miền tây Thừa Thiên bằng những khúc ru nhịp nhàng, mang giọng điệu ngọt ngào trìu mến”.
Người mẹ trong thi ca từ sau Cách mạng tháng Tám luôn là hình tượng trung tâm, có sự phát triển về tầm vóc và chiều sâu tình cảm tư tưởng, hài hoà riêng chung. Từ những người mẹ trong thơ Tố Hữu thời kì kháng chiến chống Pháp như bà Bầm, bà Bủ, bà mẹ Việt Bắc đến người mẹ trong Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên, chúng ta đã từng được cảm nhận sự gắn kết giữa người mẹ với cách mạng và kháng chiến. Đến thời kì kháng chiến chống Mĩ, với tính chất quyết liệt gian khổ, chúng ta từng gặp những vẻ đẹp như hình tượng người mẹ đào hầm giấu hàng sư đoàn dưới đất ở Đất quê ta mênh mông của nhà thơ Dương Hương Ly. Có thể nói hình tượng người mẹ trong bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm là sự kế thừa tốt đẹp những đặc trưng người mẹ quê hương - người mẹ chiến sĩ, tập trung những cảm xúc trong trẻo nhất của nhà thơ, gợi về vẻ đẹp tâm hồn của đồng bào dân tộc theo kháng chiến. Không phải ngẫu nhiên khi phổ nhạc bài thơ này, nhạc sĩ Trần Hoàn đã đặt lại tựa đề là Lời ru trên nương, bởi lẽ chính những lời ru đã làm thành câu tứ của bài thơ, dẫn dắt ta vào một thế giới mang đậm bản sắc riêng của người Tà-ôi. Bài thơ như là minh chứng của tấm lòng đồng bào dân tộc một lòng tin theo Đảng, thương con, thương bộ đội, thương yêu núi rừng nương rẫy làng bản, thương đất nước. Tình thương thành điệp khúc xuyên suôT theo nhịp chày của mẹ:
Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ
Có lẽ đây là lời của nhà thơ, hàm chứa bao trìu mến dành cho chú bé Tà-ôi như muốn góp thêm bao thương mến hoà cùng khúc ru của mẹ. Hình ảnh ấy khiến người đọc bồi hồi nhớ lại những câu thơ viết về người mẹ Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp của nhà thơ Tố Hữu:
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng ĐỊu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Người mẹ chống Pháp và người mẹ chống Mĩ có những điểm tương đồng trong công việc. Nhưng ở Nguyễn Khoa Điềm, hình ảnh thơ này không xuất phát từ nỗi nhớ mà được cất lên ngay giữa hiện thực chông Mĩ. Nét đẹp của hình tượng được khơi lên từ tính chất công việc “Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội”. Người mẹ được khắc hoạ trong từng chi tiết sống động nhất, nổi bật với tứ thơ thật đẹp:
Nhịp chày nghiêng, giấc ngủ em nghiêng.
Tưởng như trong động tác của mẹ cũng đã ngân lên nhịp điệu ru ngọt ngào và nhịp đưa em đều đặn an bình như trên một cánh võng êm. Tác giả hoàn toàn không thi vị hoá mà bằng ngòi bút tả thực giúp người đọc nhận ra: mồ hôi mẹ nóng hổi, vai mẹ gầy - bao vất vả như đọng cả trên đôi vai mẹ. Mỗi khúc ru hiện lên hình ảnh mẹ trong nhiều tư thế cũng như công việc khác nhau: giã gạo, tỉa bắp, chuyển lán, đạp rừng... như hoàn chỉnh bức chân dung lao động khoẻ khoắn cũng như niềm hân hoan được hoà vào những công việc kháng chiến. Không những thế, qua những hình ảnh này, ta còn hình dung một nhịp sông bình thản của những người dân và cán bộ chiến sĩ ở chiến khu chông Mĩ. Mặc dù, trong thực tế, đây là nơi hứng chịu rất nhiều bom đạn kẻ thù và luôn phải đương đầu với những cuộc hành quân lùng sục “tìm và diệt”, càn quét hòng xóa sạch dấu tích của vùng chiến khu đầu môi Bắc - Nam này. Cuộc sông khó khăn thiếu thốn đòi hỏi phải tự cấp tự túc, tăng gia sản xuất, bảo đảm nuôi quân đánh giặc. Hình ảnh người mẹ giã gạo khiến ta lại liên tưởng đến những nhịp chày trong bài hát Tiếng chày trên sóc Bom Bo của cố nhạc sĩ Xuân Hồng. Ở đâu cũng vậy, khi cách mạng được bao bọc, chăm chút bằng tất cả tình cảm yêu nước của nhân dân, khi biết dựa vào dân thì không sức mạnh tàn bạo nào của kẻ thù có thể khuất phục.
Gạo dành để nuôi quân, mẹ lại lên nương tỉa bắp, cùng với a-kay. Đằng sau hành động đó ẩn chứa vẻ đẹp của sự hi sinh, nhường cơm sẻ áo cho người cách mạng. Lòng mẹ bao dung lại được cảm nhận bằng bao tình cảm thương mến của nhà thơ:
Lưng núi thì to mà lưng mẹ nhỏ Em ngủ ngoan em đừng làm mẹ mỏi Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi Mặt trời của mẹ, em nằm trên lưng
Lời thơ thật dịu dàng như ru sâu thêm giấc ngủ cho em cu Tai, như muốn sẻ chia những vất vả nhọc nhằn trong công việc của mẹ. Không gian mênh mang của vùng núi rừng tây Thừa Thiên như mở ra với ánh mặt trời lan toả khắp núi đồi. Nổi bật giữa khung cảnh là người mẹ Tà-ôi với công việc cần mẫn. Nhưng mẹ không hề đơn độc chính vì có mặt trời của mẹ - e?n cu Tai đang ngon giấc. Với cách ví von đặc sắc này, nhà thơ đã tạo nên liên tưởng về mối quan hệ mật thiết của con người với núi rừng, nương rẫy. Không có tình cảm gắn bó, không thể tạo được liên tưởng thú vị giữa hạt bắp với con nằm trên lưng. Mặt trời không gợi ra cảm giác về độ nóng, độ chói mà trở thành hình tượng biểu trưng cho nguồn sống mạnh mẽ. Mặt trời của bắp đem lại hạt mẩy hạt chắc. Mặt trời của mẹ - em cu Tai là hạnh phúc, nguồn sông của mẹ. Những chú bé Tà-ôi được tắm trong ánh sáng sẽ trở nên vạm vỡ săn chắc, ánh mặt trời hào phóng ban tặng cho mẹ những đứa con khoẻ mạnh của núi rừng. Hình tượng sáng tạo của Nguyễn Khoa Điềm đã đem lại những rung cảm thẩm mĩ đặc biệt.
Người đọc còn nhận ra tấm lòng mẹ mênh mông trong hình ảnh mẹ con không cách xa: Lưng đưa nôi và tim hát thành lời. Lời tim ngân nga suốt ba đoạn thơ thành điệp khúc dạt dào thương mến:
Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi Mẹ thương a-kay...
Khởi nguồn của mọi hành động cao cả bắt đầu từ tình yêu bình dị nhất. Điểm xuất phát của lời ru chính từ tấm lòng mẹ thương a-kay vô bờ bến này ! Còn tình thương nào bình dị, gần gũi mà sâu sắc bằng tình mẹ thương con? Âm vang lòng mẹ cất thành lời ru, thành lời thơ đầy xúc cảm của Nguyễn Khoa Điềm, với những chiều liên tưởng gắn bó trực tiếp với từng công việc của mẹ, bộc lộ vẻ đẹp rất giản dị mà cao cả. Mẹ thương a-kay ! - rất ngắn gọn nhưng cũng rất đầy đủ, đẹp đẽ vẻ đẹp tâm hồn mẹ. Hơn thế nữa, đó là xuất phát điểm của những tình cảm thời đại: mẹ thương bộ đội. Có ranh giới nào của tình thương rất đầm ấm ấy không?
Sự sống của a-kay cũng là tương lai của buôn làng. Bởi thế cũng rất tự nhiên khi mẹ thương a-kay, mẹ thương làng đói. Cuộc sông của người Tà-ôi những năm chống Mĩ còn bao cơ cực thiếu thôn nhưng sức mạnh của tình thương sẽ giúp người mẹ vượt lên tất cả. Bàn tay mẹ cần mẫn tỉa bắp, gieo mầm sự sống với niềm mong mỏi thật bình dị: hạt bắp lên đều. Núi rừng, buôn làng và đứa con thân thương vô cùng với tâm hồn mẹ. Tình cảm yêu thương ấy còn thăng hoa trong những ước mơ về sự sống buôn làng. Đẹp thay và cũng dạt dào thương mến là lời thơ: Con mơ cho mẹ... hạt gạo trắng ngần, hạt bắp lên đều. Giấc mơ giản dị truyền sang em cu Tai còn chứa đựng niềm mong ước về tương lai của con:
Mai sau con lớn vung chày lún săn ... Mai sau con lớn phát mười Ka-lưi
Hình ảnh gắn với tương lai của con thật kì vĩ, như mang theo sức mạnh của các nhân vật sử thi huyền thoại. Ước vọng về con làm nên sức mạnh, sự bền bỉ của mẹ. Đồng thời còn hội tụ cả sức mạnh cộng đồng từ quá khứ đến hiện tại gắn với tinh thần cuộc chiến đấu lâu dài, vượt qua bao sóng gió thử thách.
Cảm hứng của khúc ru cuối gắn liền với hiện thực khốc liệt và khẩn trương của cuộc kháng chiến chông Mĩ, với nhịp sống chiến khu Trị - Thiên. Hình ảnh của mẹ trong đoạn thơ này có một sự thay đổi, không phải trong một dáng chênh chao trong nhịp chày nghiêng, không lặng thầm nhẫn nại gieo từng hạt giống mà rất dứt khoát mạnh mẽ:
Mẹ đi chuyển lán, mẹ đi đạp rừng
Dáng vẻ con người được tô đậm qua hai động từ “đi” gợi tư thế chủ động với những công việc tiếp sức chiến đấu: chuyển lán, đạp rừng như hàm chứa ý thức tự hào của người Tà-ôi làm chủ vùng núi rừng của ta. Con người trong tư thế đô'i mặt với kẻ thù, quyết tâm chiến đấu giữ đất giữ rừng. Kẻ thù với dã tâm “đuổi ta phải rời con suối”, người Tà-ôi vẫn một dạ kiên trung ! Không chỉ có mẹ, mà anh trai cầm súng, chị gái cầm chông và em cu Tai cũng theo mẹ vào trận cuối. Những câu thơ hừng hực tinh thần bất khuất của người dân tộc miền tây Thừa Thiên, đem lại cảm hứng lạc quan của cuộc chiến đấu chông Mĩ. Sự trưởng thành của mỗi con người từ nhận thức đến hành động đã được khẳng định bằng hai câu thơ thật khoẻ khoắn:
Từ trên lưng mẹ, em đến chiến trường Từ trong đói khổ, em vào Trường Sơn
Tinh thần của bao thế hệ người Tà-ôi theo cách mạng đã truyền cả sang a-kay, dạt dào một niềm tin, khẳng định dứt khoát con đường em đi sẽ hoà vào đội ngũ chiến đấu với ý chí quyết thắng. Đó là cơ sở cho ước mơ thật đẹp:
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ Mai sau con lớn làm người Tự do
Trong tình cảm của người Tà-ôi cũng như của những đứa con miền Nam chiến đấu chống Mĩ, Bác Hồ luôn là nguồn động viên, là biểu tượng sáng chói của cách mạng, của chiến thắng. Bởi vậy, mong ước được gặp Bác luôn là cảm xúc thường trực, dù cho thời điểm viết bài thơ này là 1971. Bởi lẽ, chỉ có thống nhất, mẹ mới được ra với Bác. Giấc mơ đẹp gắn liền với ước nguyện giành lại trọn vẹn non sông, thoả lòng Bác mong. Lời ru kết lại cùng hình tượng em cu Tai của tương lai là người Tự do của một đất nước hoà bình. Đó cũng là mong ước chung của nhân dân, của những người Việt Nam yêu nước.
Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ của Nguyễn Khoa Điềm đã tạo được những cảm xúc đồng điệu với bao người con miền Nam anh dũng thời chông Mĩ, nói lên trọn vẹn vẻ đẹp và tâm tư của người dân tộc miền tây Thừa Thiên trung dũng kiên cường, thủy chung với cách mạng. Cảm xúc bình dị trong sáng với hình tượng người mẹ đã làm nên sức hấp dẫn riêng của tác phẩm. Từ ngôn ngữ đến hình ảnh thơ đều đậm chất dân tộc, đem đến cho người đọc những cảm nhận đặc biệt thương mến cùng hoà theo lời ru cho giấc ngủ thanh bình của em bé Tà-ôi. Bài thơ toát lên tinh thần lạc quan cách mạng, kết đọng những ân tình sâu lắng của nhà thơ về nhân dân đất nước cũng như niềm tin vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chông Mĩ.
Niềm tin ngày ấy giờ đây đã thành hiện thực. Em cu Tai ngày ấy giờ đây cũng đã trưởng thành và sống làm người Tự do như niềm mong mỏi ngày nào thiết tha trong lời ru của mẹ. Nhưng lời ru ngày ấy mãi còn sức vang ngân trong lòng bao thế hệ, bồi đắp tình yêu quê hương đất nước, con người Việt Nam.