Soạn bài Hoàng Lê nhất thống chí - Hồi thứ mười bốn (trích)

  • Hoàng Lê nhất thống chí - Hồi thứ mười bốn (trích) trang 1
  • Hoàng Lê nhất thống chí - Hồi thứ mười bốn (trích) trang 2
  • Hoàng Lê nhất thống chí - Hồi thứ mười bốn (trích) trang 3
  • Hoàng Lê nhất thống chí - Hồi thứ mười bốn (trích) trang 4
  • Hoàng Lê nhất thống chí - Hồi thứ mười bốn (trích) trang 5
  • Hoàng Lê nhất thống chí - Hồi thứ mười bốn (trích) trang 6
  • Hoàng Lê nhất thống chí - Hồi thứ mười bốn (trích) trang 7
HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ
(Hồi thứ mười bốn)
ĩ. KIẾN THỨC Cơ B
A. Giói thiệu:
Vài nét về tác giả:
“Hoàng Lê nhất thống chí” là tác phẩm của Ngô gia văn phái - một tập thể các tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì, ở làng Tả Thanh Oai, nay thuộc huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây, trong đó hai tác giả chính là Ngô Thì Chí và Ngô Thì Du.
Ngô Thì Chí (1753 - 1788) là em ruột Ngô Thì Nhậm, làm quan dưới thời Lê Chiêu Thông. Ông là người tuyệt đối trung thành với nhà Lê. Khi Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh (1787), Ngô Thì Chí chạy theo Lê Chiêu Thống, dâng “Trung hưng sách” bàn kế khôi phục nhà Lê. Sau đó ông được Lê Chiêu Thống cử đi Lạng Sơn chiêu tập những kẻ lưu vong, lập nghĩa binh chống Tây Sơn, nhưng trên đường đi ông bị bệnh, mất tại huyện Gia Bình (Bắc Ninh).
Ngô Thì Du (1772 - 1840) là anh em chú bác ruột với Ngô Thì Chí. ông học giỏi nhưng không đỗ đạt gì. Dưới triều Tây Sơn, ông ẩn mình ở vùng Kim Bảng (nay thuộc Hà Nam). Thời nhà Nguyễn, ông ra làm quan, được bổ Đốc học Hải Dương đến năm 1827 thì về nghỉ.
“Hoàng Lê nhất thông chí” (ghi chép về sự nhất thống của vương triều nhà Lê) là tác phẩm văn xuôi chữ Hán được viết theo thể chí, một thể văn cổ vừa có tính chất văn học, vừa có tính chất lịch sử. Đây thực chất là một cuốn tiểu thuyết lịch sử, viết theo lối tiểu thuyết chương hồi. Tác phẩm gồm 17 hồi, trong đó 7 hồi đầu do Ngô Thì Chí viết, 7 hồi giữa của Ngô Thì Du, 3 hồi còn lại do người khác viết (có tài liệu cho là Ngô Thì Thiến).
Tác phẩm tái hiện chân thực bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam đầy biến động khoảng ba mươi năm cuôì thế kỉ XVIĨI và mấy năm đầu thế kỉ XIX, trong đó tập trung vào hai nội dung chính:
+ Vạch trần sự thối nát, mục ruỗng dẫn đến sự sụp đổ tất yếu của các tập đoàn phong kiến Lê - Trình'.
Mở đầu là sự sa đọa, thối nát đến cực độ của các nhân vật đứng đầu các tập đoàn phong kiến. Các ông vua thời Lê mạt thì chẳng ra vua: Lê Hiển Tông chỉ biết “chắp tay rủ áo”, cam phận làm bù nhìn, bạc nhược đến mức phó mặc trách nhiệm cho nhà chúa “Chúa gánh cái lo, ta hưởng cái vui”; Lê Chiêu Thống rước giặc vào nhà, rước voi giày mả tổ, “đê hèn, khuất phục” trước giặc Mãn Thanh, mong cứu vãn cái ngai vàng sắp sụp đổ; ông vua cuối cùng Lê Dúy Mật “chỉ là một cục thịt trong cái túi da mà thôi”. Bên phủ chúa, Trịnh Sâm hoang dâm vô độ, say mê Đặng Thị Huệ, dẫn đến việc phế con trưởng là Trịnh Tông, lập con thứ là Trịnh Cán lên làm thế tử. Trịnh Sâm chết, nhà chúa loạn, gây nên cảnh nồi da nấu thịt, anh em đánh giết lẫn nhau, rồi đến nạn kiêu binh ỷ thế lộng hành. Sự tranh giành quyền lực giữa các phe phái phong kiến đã đến hồi quyết liệt, dữ dội.
+ Phong trào nông dân khởi nghĩa Tây Sơn và người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ-.
Trong bối cảnh xã hội phong kiến rối ren, thối nát, cuộc nổi dậy của phong trào nóng dân Tây Sơn là một tất yếu. Người anh hùng Nguyễn Huệ liên tiếp lập nên những chiến công oanh liệt chống thù trong giặc ngoài, đánh tan giặc xâm lược Mãn Thanh, lập nên triều đại Tây Sơn.
Nhưng cơ nghiệp Tây Sơn ngắn ngủi, chúa Nguyên lại dần dần hồi phục thế lực, dẹp Tây Sơn, lập vương triều mới (1802). Kết thúc tác phẩm là tình trạng thảm hại, nhục nhã của vua tôi Lê Chiêu Thống nương thân ở nước người.
Tất cả những sự kiện lịch sử trên được miêu tả một cách thật cụ thể, sinh động. Nổi bật trên nền thời đại ấy là vóc dáng của những con người thuộc các phe phái đốì lập, đặc biệt là hình ảnh sáng ngời của một Quang Trung Nguyễn Huệ, người anh hùng tiêu biểu cho sức mạnh quật cường của cả một dân tộc.
Hồi thứ mười bốn kể lại chiến công oanh liệt của Quang Trung Nguyễn Huệ tiêu diệt 20 vạn quân Thanh.
Hai hồi trước (12 và 13) kể việc Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc lần thứ hai để bắt Vũ Văn Nhậm. Lê Chiêu Thông sợ hãi bỏ kinh thành Thăng Long chạy lên phía Bắc, chiêu mộ quân binh để mưu tính sự nghiệp trung hưng nhà Lê. Việc không thành, Lê Chiêu Thống cử người bí mật sang Trung Quốc cầu viện triều đình Mãn Thanh. Tổng đốc Lưỡng Quảng Tôn Sĩ Nghị được lệnh thiên triều liền kéo đại quân sang nước ta với danh nghĩa phù Lê, diệt Tây Sơn. Trước thế giặc mạnh, quân Tây Sơn rút lui về cố thủ ở Tam Điệp. Quân Thanh kéo thẳng tới Thăng Long, không gặp sức kháng cự nào, sinh kiêu căng, tự mãn. Lê Chiêu Thống cũng theo về, nhận sắc phong An Nam Quốc Vương, nhất nhất mọi việc đều theo lệnh của Tôn Sĩ Nghị. Nghị nghênh ngang, ngạo ngược, không kể gì tới ai.
Mở đầu hồi mười bôn kể về tình trạng của quân tướng Tôn Sĩ Nghị chỉ lo “chơi bời, tiệc tùng, không hề để ý đến việc quân”, lính thì “tự tiện bỏ cả đội ngũ, đi lại lang thang, không còn có kỉ luật gì cả”. Thái hậu nghe tin, lo sợ nói với Lê Chiêu Thông. Vua hoảng sợ, xin Tôn Sĩ Nghị xuất quân, bị hắn mắng vào mặt. Vua sợ bị quở trách nữa nên lại lui về.
B. Đọc - Hiểu văn bản:
Đoạn trích ở phần sau của hồi mười bốn. Có thể chia làm ba đoạn:
+ Đoạn 1 (từ đầu đến “hôm ấy nhằm vào ngày 25 tháng chạp năm Mậu Thân (1788)”): được tin báo quân Thanh đã chiếm Thăng long, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế và thân chinh cầm quân ra Bắc dẹp giặc.
+ Đoạn 2 (tiếp theo đến “vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long rồi kéo vào thành”): cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung.
+ Đoạn 3 (phần còn lại): sự đại bại của quân Thanh và tình trạng thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thông.
Hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ:
Trong đoạn trích, hình tượng Nguyễn Huệ nổi lên sáng ngời phẩm chất của người anh hùng.
Hành động mạnh mẽ, quyết đoán:
Trong mọi tình huống, Nguyễn Huệ luôn luôn thể hiện là một con người hành động một cách xông xáo, nhanh gọn, có chủ đích và rất quả quyết. Nghe tin giặc đã đánh chiếm đến tận Thăng Long, chiếm cả một vùng đất đai rộng lớn, Nguyễn Huệ vẫn không hề nao núng, “định thân chinh cầm quân đi ngay”. Rồi sau đó, chỉ trong vòng một tháng (từ 24 tháng 11 đến 30 tháng chạp), Nguyễn Huệ đã làm được bao nhiêu việc lớn: “tế cáo trời đất” lên ngôi Hoàng đế, “đốc xuất đại binh” ra Bắc, gặp gỡ “người cống sĩ ở huyện La Sơn” Nguyễn Thiếp, tuyển mộ quân lính và mở cuộc duyệt binh ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và kế hoạch đốì phó với nhà Thanh sau chiến thắng.
ồ. Trí tuệ sáng suốt, sâu sắc và nhạy bén:
+ Trí tuệ ấy biểu hiện trong việc xét đoán và dùng người. Khi đến Tam Điệp, gặp Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân “đều mang gươm trên lưng và xin chịu tội”, Nguyễn Huệ xử trí vừa có lí vừa có tình. Ông rất hiểu sở trường, sở đoản của các tướng sĩ, khen chê đều đúng người, đúng việc.
+ Trí tuệ ấy biểu hiện trong việc phân tích tình hình thời cuộc và tương quan ta - địch. Trong lời phủ dụ quân lính ở Nghệ An, vua Quang Trung khẳng định chủ quyền dân tộc của ta và hành động xâm lăng phi nghĩa, trái đạo trời của giặc (đất nào sao ấy đều đã phân hiệt rõ ràngỴ, nêu bật dã tâm của giặc (hụng dạ ắt khác... giết hại nhân dân, vơ vét của cảỉỴ, nêu cao truyền thống chông giặc ngoại xâm của dân tộc ta từ xưa; kêu gọi quần lính “đồng tâm hiệp lực; ra kỉ luật nghiêm minh... Lời phủ dụ như một bài hịch ngắn gọn mà ý tứ thật phong phú, sâu xa, có tác dụng kích thích lòng yêu nước và truyền thống quật cường của dân tộc.
Ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng: mới khởi binh đánh giặc, chưa giành lại được một tấc đất nào, vậy mà vua Quang Trung đã tuyên bô" chắc chắn như đinh đóng cột “phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”, lại còn tính sẵn cả kế hoạch ngoại giao sau khi chiến thắng một nước “lớn gấp mười nước mình” để có thể “dẹp việc binh đao”, “cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng”.
Tài dụng binh như thần:
Đến tận hôm nay, chúng ta vẫn còn kinh ngạc vì cuộc hành quân thần tốc của nghĩa quân Tây Sơn do vua Quang Trung chỉ huy. Ngày 25 tháng chạp bắt đầu xuất quân ở Phú Xuân (Huế), ngày 29 đã tới Nghệ An, vượt khoảng 350 km qua núi, qua đèo. Đến Nghệ An, vừa tuyển quân, tổ chức đội ngũ, vừa duyệt binh, chỉ trong vòng một ngày. Hôm sau, tiến quân ra Tam Điệp (cách khoảng 150km). Và đêm 30 tháng chạp đã “lập tức lên đường”, tiến quân ra Thăng Long. Mà tất cả đều là đi bộ. Có sách còn nói vua Quang Trung sử dụng cả biện pháp dùng võng khiêng, cứ hai người khiêng thì một người được nằm nghỉ, luân phiên nhau suốt đêm ngày. Từ Tam Điệp ra Thăng Long (khoảng hơn 150 km), vừa hành quân, vừa đánh giặc mà vua Quang Trung định kế hoạch chỉ trong vòng 7 ngày, mồng 7 tháng giêng sẽ vào ăn tết ở Thăng Long. Trên thực tế, đã thực hiện kế hoạch sớm hai ngày: trưa mồng 5 đã vào Thăng Long. Hành quân xa liên tục như vậy, thường quân đội sẽ mệt mỏi, rã rời, nhưng nghĩa binh Tây Sơn thì cơ nào đội ấy vẫn chỉnh tề. Đó là do tài tổ chức của người cầm quân: hơn một vạn quân mới tuyển đặt ở trung quân, còn quân tinh nhuệ từ đất Thuận Quảng ra thì bao bọc ở bốn doanh tiền, hậu, tả, hữu.
Lẫm liệt trong chiến trận:
Hoàng đế Quang Trung thân chinh cầm quân không phải chỉ trên danh nghĩa. Ông là một tổng chỉ huy chiến dịch thực sự: hoạch định phương lược tiến đánh, tổ chức quân sĩ, tự mình thông lĩnh một mũi tiến công, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha tên đạn, bày mưu tính kế... Đội quân của vua Quang Trung không phải toàn là lính thiện chiến, lại vừa trải qua những ngày hành quân cấp tốc, không có thì giờ nghỉ ngơi, vậy mà dưới sự lãnh đạo tài tình của Quang Trung, đã đánh những trận thật hào hùng, thật đẹp, thắng áp đảo kẻ thù (bắt sông hết quân do thám của địch ở Phú Xuyên, giữ được bí mật đế tạo
thế bất ngờ, vây kín làng Hà Hồi, “quân lính luân phiên dạ ran” làm cho lính trong đồn “ai nấy rụng rời sợ hãi” xin hàng; công phá đồn Ngọc Hồi, lấy ván ghép phủ rơm dấp nước để làm mộc che, dàn trận tiến đánh, khi giáp lá cà thì “quăng ván xuống đất, ai nấy cầm dao ngắn chém bừa, những người cầm binh khí theo sau cũng nhất tề xông tới”...). Khí thế của đội quân này làm cho kẻ thù phải khiếp vía “Thật là: tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên, và hình ảnh người anh hùng cũng được khắc hoạ thật lẫm liệt. Trong trận đánh đồn Ngọc Hồi, giữa cảnh “khói tỏa mù trời, cách gang tấc không thấy gì”, nổi bật hình ảnh nhà vua “cưỡi voi đi đốc thúc”. Có sách ghi khi Quang Trung vào đến Thăng Long, tấm áo bào màu đỏ đã sạm đen khói súng.
Cách trần thuật của đoạn văn thật đặc sắc, không chỉ nhằm ghi lại những sự kiện lịch sử diễn biển gấp gáp, khẩn trương qua từng mốc thời gian, mà còn chú ý miêu tả cụ thể từng hành động, lời nói của nhân vật chính, từng trận đánh và những mưu lược tính toán, thế đối lập giữa hai đội quân ('một bên thì xộc xệch, trễ nải, nhát gan, một bên thì xông xáo dũng mãnh, tổ chức nghiêm minh). Qua đó, hình ảnh người anh hùng được khắc họa khá đậm nét, có tính cách quả cảm, mạnh mẽ, có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén, có tài dụng binh như thần, là người tổ chức và là linh hồn của chiến công vĩ đại. Đây là đặc điểm khẳng định rõ tính chất thể loại tiểu thuyết lịch sử của tác phẩm.
Dường như có sự mâu thuẫn giữa nhan đề tác phẩm với nội dung tác phẩm. Nhan đề mang ý nghĩa ca ngợi nhà Lê, nhưng nội dung tác phẩm lại vạch rõ sự thối nát, mục ruỗng của triều đình nhà Lê, và ca ngợi người anh hùng áo vải Tây Sơn Nguyễn Huệ. Điều đó nói lên quan điểm phản ánh hiện thực của các tác giả là tôn trọng sự thực lịch sử và ý thức dân tộc. Dù có cảm tình với nhà Lê, họ không thể bỏ qua sự thực là ông vua nhà Lê hèn yếu đã cõng rắn cắn gà nhà. Dù không theo Tây Sơn, họ không thể không thấy chiến công lẫy lừng của vua Quang Trung là niềm tự hào lớn lao của dân tộc. Bởi thế nên các tác giả họ Ngô đã viết thực và viết hay về người anh hùng Nguyễn Huệ.
Sự thảm bại của bọn quân tướng nhà Thanh:
Tôn Sĩ Nghị kéo quân sang An Nam là nhằm những lợi ích riêng, lại không muôn tốn nhiều xương máu. Hơn nữa, y còn là một tên tướng bất tài, cầm quân mà không biết được tình hình thực hư ra sao, lại còn kiêu căng tự mãn, chủ quan khinh địch. Dù đã được vua tôi Lê Chiêu Thông báo trước, y vẫn không chút đề phòng, suốt mấy ngày Tết chỉ “chăm chú vào yến tiệc, vui mừng, không lo chi đến việc bất trắc”, cho quân lính mặc sức vui chơi.
Khi quân Tây Sơn đánh đến nơi, tướng thì “sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp... chuồn trước qua cầu phao”, quân thì lúc lâm trận “ai nây đều rụng rời sợ hãi” xin ra hàng” hoặc “bỏ chạy tán loạn,giày xéo lên nhau mà chết”, “quân sĩ các doanh nghe tin, đều hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu qua sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều” đến nỗi “nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa”. Cả đội binh hùng tướng mạnh chỉ còn biết tháo chạy, mạnh ai nấy chạy “đêm ngày đi gấp, không dám nghỉ ngơi”.
Số phận thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống-.
Lê Chiêu Thông và những bề tôi trung thành với ông ta đã vì mưu lợi ích riêng của dòng họ mà cõng rắn cắn gà nhà, đem vận mệnh của cả dân tộc đặt vào nanh vuốt của kẻ thù xâm lược. Bọn người phi nghĩa ấy đã phải chịu đựng nỗi sỉ nhục của kẻ đi cầu cạnh van xin, và cuối cùng phải chịu chung sô' phận bi thảm của kẻ vong quốc. Khi có biến, Lê Chiêu Thông cùng bọn bề tôi thân tín vội vã “đưa thái hậu ra ngoài”, chạy trôi chết, cướp thuyền dân để qua sông, chạy “luôn mấy ngày không ăn”. May gặp người thổ hào thương tình cho ăn và chỉ đường cho chạy trôn. Đuổi kịp được Tôn Sĩ Nghị, vua tôi chỉ còn biết “cùng nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt”. Đoạn văn miêu tả chân thực tình cảnh khốn quẫn của vua Lê Chiêu Thông, phơi bày tất cả sự thảm hại trong kết cục của một ông vua phản dân hại nước. Nhưng có thể thấy tác giả vẫn gửi gắm ở đó chút tình cảm riêng của một bề tôi cũ nhà Lê. Lòng thương cảm của tác giả biểu hiện qua những giọt nước mắt và thái độ săn sóc tận tình của người thổ hào. Giọng văn cũng có phần ngậm ngùi, khác với âm hưởng sôi nổi, hào hứng ở đoạn trên.
Tổng kết:
Với quan điểm lịch sử đúng đắn và niềm tự hào dân tộc, các tác giả “Hoàng Lê nhất thống chí” đã tái hiện chân thực, sinh động hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh, sự thảm bại của các tướng lĩnh nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống.
II. ĐÊ VĂN LUYỆN TẬP
Đề: Phân tích hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ trong tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí”, hồi thứ mười bô'n.
DÀN Ý
Mở bài:
+ Giới thiệu tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí”.
+ Ớ hồi thứ mười bô'n, các tác giả đã tái hiện sinh động, chân thực hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh.
Thân bài:
Phân tích hình tượng Nguyễn Huệ với những nét phẩm chát của người anh hùng:
Hành động mạnh mẽ, quyết đoán.
Trí tuệ sáng suốt, sâu sắc và nhạy bén.
Ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng.
Tài dụng binh như thần.
Lẫm liệt trong chiến trận.
c. Kết bài: nêu ý nghĩa của hình tượng.