Soạn bài Viếng lăng Bác

  • Viếng lăng Bác trang 1
  • Viếng lăng Bác trang 2
  • Viếng lăng Bác trang 3
  • Viếng lăng Bác trang 4
VIẾNG LĂNG BÁC
(Viễn Phương)
KIẾN THỨC Cơ BẢ
Giới thiệu:
Vài nét về tác giả:
Viễn Phương tên là Phan Thanh Viễn (còn có bút danh khác là Phương Viễn), sinh năm 1928, quê ở tỉnh An Giang. Tham gia cách mạng từ năm 1945. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp và chông đế quốc Mĩ, ông hoạt động ở Nam Bộ, là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời kì chông Mĩ cứu nước, là Tổng thư kí Hội văn nghệ giải phóng Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định.
Năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nước thống nhất, lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng vừa khánh thành, Viễn Phương ra thăm miền Bắc, vào lăng viếng Bác Hồ. Bài thơ “Viếng lăng Bác” được sáng tác trong dịp đó và in trong tập thơ “Như mây mùa xuân” (1978).
Đây là một trong những bài thơ cảm động và xuất sắc nhất viết về lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Đọc - Hiểu văn bản:
Bài thơ được viết theo thể thơ tự do, gồm 4 khổ, mỗi khổ 4 câu.
Cảm hứng bao trùm bài thơ là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, là lòng biết ơn và tự hào xen lẫn nỗi xót đau khi tác giả từ miền Nam ra viếng lăng Bác. Giọng điệu thành kính, trang nghiêm của bài thơ rất phù hợp với cảm xúc, và cũng phù hợp với không khí thiêng liêng nơi lăng Bác.
Mạch cảm xúc vận động theo trình tự cuộc vào lăng viếng Bác:
+ Khổ 1: cảm xúc về cảnh bên ngoài lăng, tập trung ở hình ảnh hàng tre;
+ Khổ 2 - 3: từ cảm xúc về dòng người bất tận ngày ngày vào lăng viếng Bác, nhà thơ xúc cảm và suy ngẫm về lãnh tụ kính yêu;
+ Khổ 4: khi sắp phải trở về miền Nam, nhà thơ mong muốn lòng mình được mãi mãi ở lại bên lăng Bác.
Tâm trạng, cảm xúc của nhà thơ khi viếng lăng Bác:
Khổ 1:
Hai câu thơ đầu như một lời tự sự nhưng đã chứa đựng bao nhiêu cảm xúc: Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác Đã thấy trong sương hàng tre hát ngát
Nhà thơ Tô' Hữu đã từng viết:
Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha
Bác đã vĩnh viễn ra đi khi nước nhà còn chia cắt. Câu thơ của Viễn Phương đã mang theo niềm xúc động của đứa con miền Nam sau bao ngày mong mỏi lần đầu tiên được ra viếng lăng Bác. Cách xưng hô “con” và “Bác” vừa gần gũi, thân thương, vừa trân trọng, thành kính.
Hình ảnh đầu tiên và là ấn tượng nổi bật trong cái nhìn đầu tiên về cảnh quan lăng Bác là hàng tre. Nhà thơ cảm nhận ở đó linh hồn quen thuộc của quê hương Việt:
Ôi ! Hàng tre xanh xanh Việt Nam Bão táp mưa sa dứng thẳng hàng.
Từ hàng tre cụ thể bên lăng Bác, nhà thơ liên tưởng đến cây tre Việt nam, đến bản lĩnh, sức sông bền bỉ kiên cường của dân tộc Việt Nam.
Khổ 2.
Khổ thơ thứ hai được bắt đầu bằng hình ảnh Mặt Trời:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Có hai mặt trời: mặt trời trong câu thơ trên là hình ảnh thực, mặt trời trong câu thơ dưới là hình ảnh ẩn dụ. Lây mặt trời để ví với Bác, nhà thơ thể hiện sự tôn kính của mình, cũng là sự tôn kính của toàn thể nhân dân Việt Nam đối với vị lãnh tụ vĩ đại.
Sự tôn kính ấy còn thể hiện trong hình ảnh dòng người ngày ngày vào lăng viếng Bác:
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...
Người vào thăm Bác, mang hoa viếng Bác, đó là một hình ảnh thực. Nhưng nhà thơ lại muôn nói đến một “tràng hoa” khác. Nhìn dòng người bất tận nối tiếp nhau, nhà thơ thấy giông như một tràng hoa dâng Bác. Lại là một sự kết hợp giữa hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ, tô đậm niềm tôn kính của nhân dân đối với Bác Hồ.
Khổ 3:
Nhà thơ diễn tả cảm xúc của mình khi đã vào trong lăng:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền Vẫn biết trời xanh là mãi mãi Mà sao nghe nhói ở trong tim !
Khổ thơ gồm 4 câu 7 chữ cân đối, trang nghiêm, phù hợp với không khí thiêng liêng và thanh tĩnh trong lăng. Không gian và thời gian như ngưng đọng trước một hình ảnh có tính vĩnh hằng. Nhà thơ cảm nhận như Bác chỉ đang ngủ một “giấc ngủ bình yên”. Đó cũng là ấn tượng thực của mọi người khi được vào thăm lăng Bác. Hình ảnh “vầng trăng” là một liên tưởng độc đáo, bất ngờ của nhà thơ. Có thể liên tưởng ấy bắt đầu từ ánh sáng rất dịu nhẹ, trong trẻo của không gian trong lăng. Khi đã xuất hiện thành hình ảnh thơ, “vầng trăng sáng dịu hiền” gợi nghĩ đến tâm hồn cao đẹp, sáng trong và những vần thơ tràn đầy ánh trăng của Người.
Từ hình ảnh “vầng trăng”, nhà thơ lại tiếp tục liên tưởng đến hình ảnh “trời xanh”. Bầu trời xanh là hình ảnh thiên nhiên lớn lao, vĩnh hằng. Nhà thơ Tô Hữu từng viết: “Bác sống như trời đất của ta”. Bác ra đi, nhưng vẫn còn mãi với non sông đất nước, như trời xanh còn mãi. Dù vẫn tin như thế nhưng không thề’ không đau xót vì sự ra đi của Người: “Mà sao nghe nhói ở trong tim !”. Câu thơ biểu hiện cụ thể và trực tiếp nỗi đau xót trong hình thức một câu hỏi tu từ.
Khổ cuối-.
Nhà thơ bày tỏ tâm trạng lưu luyến khi sắp phải trở về miền Nam:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây Muốn làm cây tre trưng hiếu chốn này.
“Mai về miền Nam”, nhớ thương Bác đến “trào nước mắt”. Câu thơ có cách diễn đạt chân thành, mộc mạc kiểu Nam Bộ. Ba câu thơ cuối bắt đầu bằng điệp ngữ “muốn làm” bày tỏ niềm mong ước. Tấm lòng lưu luyến của nhà thơ gửi vào trong niềm mong ước thiết tha muôn hóa thân vào những cảnh vật bên lăng Bác: muốn làm con chim hót, muốn làm bông hoa tỏa hương, và hơn hết, muôn làm cây tre trung hiếu” nhập vào “hàng tre bát ngát” quanh lăng Bác.
Hình ảnh hàng tre ở khổ thơ đầu được lặp lại ở cuối bài, tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng, tô đậm hình ảnh gây ấn tượng sâu sắc và dòng cảm xúc được trọn vẹn.
Đặc điểm nghệ thuật của bài thơ:
+ Giọng điệu thơ phù hợp với nội dung tình cảm, cảm xúc: vừa trang nghiêm, sâu lắng, vừa tha thiết, đau xót, tự hào.
+ Thể thơ 8 chữ, xen lẫn những dòng thơ 7 hoặc 9 chữ. Nhịp thơ chủ yếu là nhịp chậm, diễn tả sự trang nghiêm, thành kính và những cảm xúc sâu lắng. Riêng khổ cuối nhịp thơ nhanh hơn, phù hợp với sắc thái của niềm mong ước.
+ Hình ảnh thơ có nhiều sáng tạo, kết hợp hình ảnh thực với hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng. Những hình ảnh ẩn dụ - biểu tượng như “Mặt Trời trong lăng”, “tràng hoa”, “vầng trăng”, “trời xanh” vừa quen thuộc, gần gũi với hình ảnh thực, vừa sâu sắc, có ý nghĩa khái quát và giá trị biểu cảm.
c. Tổng kết:
Bài thơ thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ đối với Bác Hồ trong một lần vào lăng viếng Bác.
Bài thơ có giọng điệu trang trọng và tha thiết, nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp và gợi cảm, ngôn ngữ bình dị mà cô đúc.