Soạn bài Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác

  • Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác trang 1
  • Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác trang 2
  • Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác trang 3
  • Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác trang 4
  • Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác trang 5
BA CỐNG HIẾN VĨ ĐẠI CỦA CÁC MÁC
Ăng-ghen
A. GIỚI THIỆU
Phri-đrích Ăng-ghen (1820 - 1895) cùng với Các Mác là nhà triết học, nhà lí luận và hoạt động cách mạng, lãnh tụ của giai cấp vô sản toàn thế giới. Ông là người Đức, con một kĩ nghệ gia giàu có ở Bác-men, miền Rê-na-ni. ông học đại học ở Béc-lin, quen biết Mác nãm 1844 ở Pa-ri, sau đó sang sông và hoạt động ở Anh rồi mất tại đây. Tro di hài của ông được rắc xuống biển.
Ăng-ghen chủ yếu viết những tác phẩm về triết học, chính trị, kinh tế, lịch sử,... Có công trình viết chung với Mác như “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” (1848). Ông cũng rất quan tâm đến văn học nghệ thuật và có nhiều ý kiến sâu sắc liên quan đến lĩnh vực này. Bài phát biểu của Ăng-ghen đọc trước mộ Các Mác là một bài văn nghị luận tiêu biểu và có giá trị văn chương.
Các Mác (1818 - 1883) là nhà triết học, nhà lí luận và hoạt động cách mạng, lãnh tụ của giai cấp vô sản toàn thế giới. Ông là người Đức, con một luật sư ở Tơ-ri-e, miền Rê-na-ni. Khi còn là học sinh trung học, ông đã được tiếp xúc với tư tưởng của Cách mạng Pháp 1789 và nền vãn học cổ điển Đức.
Năm 1842, Mác tham gia hoạt động báo chí: Tờ báo tiến bộ của ông bị chính quyền bắt đình bản. Ông sang Pa-ri (Pháp). Đến năm 1845, bị trục xuất khỏi Pháp vì những hoạt động cách mạng, ông sang Brúc-xen (Bỉ). Do những diễn biến chính trị, ông lại đến Pa-ri lẩn tránh (1848), về Cô-lô-nhơ (Đức) rồi lại tới Pa-ri (1849), sau đó sang ở hẳn tại Luân Đôn (Anh). Thời gian ở Bỉ, ông cùng với Ăng-ghen viết “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”. Công trình nổi tiếng nhất của Mác là bộ “Tư bản” (1864 - 1876). Mác qua đời ngày 14 - 3 - 1883. Tang lễ cử hành tại nghĩa trang Hai-ghết (Luân Đôn). Ăng- ghen đọc bài phát biểu trước mộ ông.
3. “Ba cống hiến vĩ đại của Các Mác” là bài phát biểu của Ăng-ghen -đọc trước mộ Mác.
Có thể xem bài phát biểu của Ăng-ghen như một bài “điếu văn” dành cho Các Mác. Bài “điếu văn” không chỉ bày tỏ sự thương tiếc mà còn ca ngợi công lao to lớn của C.Mác. Có thể hiểu đây là đánh giá của một vĩ nhân về một vĩ nhân, ở đó Ph.Ăng-ghen nhấn mạnh tính chất bất tử của những công hiến của C.Mác đối với nhân loại. Điếu vãn này khẳng định khía cạnh quan trọng của cuộc đời con người là “khía cạnh sống” thể hiện bằng sự đóng góp thúc đẩy sự phát triển của nhân loại chứ không dừng ở “khía cạnh mất mát” đau thương. Điều đó thể hiện qua cách lập luận được tổ chức theo hình thức so sánh bằng kết hợp tầng bậc để từ đó tạo ra sự trùng điệp nhằm nhấn mạnh tính chất bất tử của những công hiến của C.Mác.
B. ĐỌC - HIỂU VĂN BẢN
Cách thể hiện tình cảm của Ph.Ăng-ghen trong đoạn mở đầu
Đoạn văn mở đầu thể hiện tình cảm tiếc thương và kính trọng của Ăng- ghen khi nói về sự ra đi của Mác.
Trước hết, đó là thời gian cụ thể: Có ngày, có giờ (ngày 14 tháng ba, lúc ba giờ kém 15 phút), có không gian (buổi chiều, trong phòng ở, trên chiếc ghế bành). Thời gian và không gian ở đây là bình thường, trong cái bình thường ấy là một vĩ nhân (cái khác thường, phi thường). Đây là hình thức đòn bẩy để tạo ra tầm vóc cho sự nhấn mạnh.
Tiếp đó là cách giới thiệu: Không phải như giới thiệu một con người bình thường mà như một con người của một lĩnh vực đặc biệt: “Nhà tư tưởng”, N& không phải là một “nhà tư tưởng’ bình thường mà là “nhà tư tưởng vĩ đại nhát trong số những nhà tư tưởng hiện đại”. Trong cách giới thiệu đó, C.Mác hiện ra là vĩ nhân của thế kỉ mà ông sông (thế kỷ XIX), tính chất vĩ nhân đó thể hiện khá rõ qua tính chất “nhà tư tường hiện đại”. Từ “hiện đại” ở đây có thể hiểu là tính chất cách mạng, tính chất mới mẻ và sáng tạo của tư tưởng C.Mác. “Hiện đại” còn thể hiện sự vượt trội về tính chất, phẩm chất so với thời đại.
Đoạn mở đầu chỉ có hai câu:
Câu thứ nhất thông báo thời điểm C.Mác - một vĩ nhân - qua đời.
Câu thứ hai cho biết sự ra đi thanh thản của bậc vĩ nhân ấy với niềm tiếc nuối của những người thân: “Để Mác ở lại một mình - vẻn vẹn chỉ có hai phút thôi - thế mà khi trở vào phòng, chúng tôi đã thấy Mác ngủ tiếp đi - thanh thản - trên chiếc ghế bành -ỳ nhưng là giấc ngủ nghìn thu”. Câu văn ở đây dường như để giãi bày tâm trạng, như để giải thích nỗi niềm thương tiếc, như để phân bua với những người đồng chí, đồng đội khác. Đoạn văn mở đầu này tạo ra không khí để thể hiện một tình cảm tịếc thương vô hạn đốì với sự ra đi của C.Mác. Đồng thời qua đó cũng cho thấy sự kính trọng của những người bạn, những người đồng chí của C.Mác.
- Đoạn tiếp theo cũng chĩ có hai câu văn và cũng có chung giọng điệu tiếc thương và kính trọng ấy. Trước hết, tầm vóc nhân loại của C.Mác cũng được khẳng định: “Con người dó mất đi là (=) một tổn thương không sao lường hết được đối với giai cấp vô sản đang đấu tranh ở châu Ầu và châu Mỹ, đối với khoa học lịch sử”, ơ đây, C.Mác hiện ra dưới hai hình thức: Một là nhà cách mạng của giai cấp vô sản và hai là nhà khoa học lịch sử. Kết cấu trùng điệp được sử dụng ở đây để nhằm nhấn mạnh tính chất vĩ nhân của C.Mác:
Con người đó - mất đi - (là) một tổn thất (không sao lường hết được).
-> Đối với giai cấp vô sản đang đấu tranh ở châu Âu và châu Mỹ.
-> Đối với khoa học lịch sử.
Từ đó, cái chết ấy tạo ra “một nỗi trống trải” đối với nhân loại, đối với khoa học. Sự kính trọng và thương tiếc được nhân lên nhiều lần. Cái chết của C.Mác trở thành sự mất mát lớn của nhân loại. Đây cũng là một hiệu quả nghệ thuật mà kết cấu trùng điệp tạo ra.
Lối kết cấu trùng điệp này cũng rất dễ nhận thấy ở các đoạn văn tiếp theo.
Lập lúận bằng kiểu kết cấu tầng bậc kết hợp so sánh
Mô hình chung của toàn bài có thể biểu diễn như sau: Thông báo về cái chết -> đánh giá sự nghiệp của người quá cố -ỳ bày tỏ sự tiếc thương người đã khuất.
Đánh giá sự nghiệp của Mác, Ăng-ghen đã lập luận theo lối kết cấu tầng bậc, kết hợp so sánh, có thể thấy qua mô hình:
Giống như: Đac-uyn đã tìm ra quy luật phát triển của thế giới hữu cơ -ỳ Mác đã tìm ra quy luật phát triển của lịch sử loài người -> Nhưng không phải chỉ có thế thôi ...
Ta có thể mô hình hóa: Giống như A dã ....
677Ù ) B đã ....
Nhưng không phải chỉ như A (Mà) B còn ...
ở đây, C.Mác được so sánh với vĩ nhân khác cùng thời đại, với những thành tựu khoa học nổi tiếng của thời đại đó.
Đây không phải là sự so sánh vụn vặt tầm thường mà là sự so sánh đặc biệt: So sánh với những tinh hoa của cùng thời đại, so sánh với những phát minh và công hiến quan trọng mà không phải ai cũng làm được và không phải đã có từ thời đại trước. Những con người cũng như những thành quả khoa học được đưa ra so sánh là những người, những thành tựu tạo nên tầm vóc con người, tạo ra đỉnh cao của thời đại.
Cho nên cách so sảnh ở đây cũng rất đặc biệt: Mác được so sánh với các đĩnh cao cùng thời và Mác không dừng ở vị trí đỉnh cao nhân loại (như những con người cụ thể, chẳng hạn Đác-uyn) mà còn vượt qua những đỉnh cao ấy. Bản thân Mác, do đó, trở thành đỉnh cao của mọi đỉnh cao, trở thành vĩ
nhân của mọi vĩ nhân, trở thành “nhà tư tưởng vĩ đại nhất trong sô' những nhà tư tưởng hiện đại”. Đây cũng chính là hiệu quả nghệ thuật mà biện pháp kết cấu tầng bậc kết hợp so sánh tạo ra. Cũng cần lưu ý là sự so sánh ở đây cũng mang tính chất là sự so sánh trùng điệp tạo ra hiệu quả tăng cấp (thông qua hàng loạt từ ngữ so sánh liên tiếp không ngừng).
Cách so sánh ở đây trước hết được đặt từ cấp độ ngang bằng, tạo ra sự đối sánh song song nhằm dụng ý nhấn mạnh:
Giống như A đã ... thì B (củng) đã ... theo kiểu: Nếu A đã ... thì B cũng ...
đặc biệt, sau vế B là một sự liệt kê không chỉ kết quả mà còn phân tích, chỉ ra ý nghĩa của kết quả ấy nữa, tạo ra một sự trùng điệp có hiệu quả nghệ thuật rất cao.
Tiếp theo sự so sánh tương đương là so sánh vượt trội mà sự khẳng định được thể hiện ngay trong: “Nhưng, không phải chỉ có thế thôi”. Cách lập luận được thể hiện ở chỗ không chỉ nêu luận điểm mà còn ngay sau đó đưa ra một sự chứng minh đầy sức thuyết phục: Mác cũng tìm ra quy luật vận động riêng của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa hiện đại và của xã hội tư sản do phương thức đó đẻ ra. Tác giả ngay sau đó chỉ ra ý nghĩa to lớn phát hiện của C.Mác: Đó là “một ánh sáng” để đối lập lại “bóng tối” mà “các nhà phê bình xã hội chủ nghĩa vẫn đều mò mẫm”.
Sự so sánh đó còn được nhấn mạnh nhiều lần ngay trong các đoạn tiếp theo. Chẳng hạn, ở đoạn tiếp theo, tác giả viết: “Hai phát minh như vậy đối với một đời người cũng là đủ rồi. Người nào mà có được phát minh như vậy thì hẳn là đã hạnh phúc lắm rồi!”.
Với tư cách là một nhà nghiên cứu khoa học thì những phát kiến của C.Mác là vô giá và tên tuổi của ông đã xứng đáng lưu vào sử sách, nhưng nếu nhận thức về Mác như vậy thì chưa thấy hết sự vĩ đại của Mác, cũng như chưa thấy hết được sự đau xót, thương tiếc của Ph.Ăng-ghen đối với Mác. cần phải hiểu thêm C.Mác từ hai phương diện: Con người của phát minh, khám phá và con người của hoạt động thực tiễn. Giữa hai con người ấy, giữa hai phương diện ấy là một mối quan hệ biện chứng nhân quả hết sức chặt chẽ. Bởi vì, như chính tác giả nhấn mạnh thì: “Khoa học đối với Mác là một động lực lịch sử, một lực lượng cách mạng", “Bởi vì trước hết Mác là một nhà cách mạng’.
Ăng-ghen nhấn mạnh khía cạnh thứ hai trong con người Mác: Khía cạnh con người hoạt động thực tiễn: “Bằng cách này hay cách khác, (ông) tham gia vào việc lật đổ xã hội tư bản và các thiết chế nhà nước do nó dựng nên, tham gia vào sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản hiện đại mà ông là người đầu tiên đã đem lại cho giai cấp đó một ý thức về địa vị của bản thân mình và yêu cầu của mình, ý thức về điều kiện để giải phóng minh - đó thật sự là sứ mệnh thiết thân của ông” bởi vì: “Đấu tranh là hành động tự nhiên của Mác”.
Một bài điếu văn độc đáo
Kết thúc bài “Điếu văn” là một tiêng khóc bày tỏ tình cảm tiếc thương dưới hình thức một lời cầu nguyện: “Tên tuổi và sự nghiệp của ông đời đời sống mãi !”.
Bài văn đề cao hình ảnh của các C.Mác nhưng tác giả không nói nhiều về cái chết mà tập trung, và đây là khía cạnh độc đáo của bài “điếu văn”, nhấn mạnh ý nghĩa của sự sông, ý nghĩa của cuộc đời Mác và sự bất tử của những đóng góp, sáng tạo mà C.Mác đã công hiến cho nhân loại.
Đây cũng là chỗ khác biệt giữa bài điếu văn này với những bài điếu vãn thông thường khác. Cuộc đời của C.Mác với những công hiến quan trọng của ông cũng mang tầm vóc nhân loại. Đây là kiểu con người hiếm hoi mà nhân loại đã sinh ra để làm đẹp cho nó.
c. Tổng kết:
Tình cảm sâu sắc và nghệ thuật lập luận tài ba của Ăng-ghen đã tạc dựng được một bức tượng đài kì vĩ, bất tử về Mác, lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân và là một trong những nhà khoa học, nhà tư tưởng vĩ đại của thời đại.