Soạn bài Thu điếu

  • Thu điếu trang 1
  • Thu điếu trang 2
  • Thu điếu trang 3
  • Thu điếu trang 4
  • Thu điếu trang 5
  • Thu điếu trang 6
  • Thu điếu trang 7
  • Thu điếu trang 8
  • Thu điếu trang 9
  • Thu điếu trang 10
  • Thu điếu trang 11
  • Thu điếu trang 12
  • Thu điếu trang 13
  • Thu điếu trang 14
  • Thu điếu trang 15
THU ĐIẾU
(Câu cả mùa thu)
Nguyễn Khuyến
KIẾN THỨC Cơ BẢN
Giới thiệu
Nguyễn Khuyến (1835 - 1909) người làng Và (tên chữ là Vị Hạ), xã Yên Đổ, huyện Bình Lục (nay thuộc xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam). Ông xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo, thông minh, hiếu học, đỗ đầu cả ba kì thi (thi Hương, thi Hội và thi Đình) nên thường được gọi là Tam nguyên Yên Đổ. ông làm quan với triều đình nhà Nguyễn được 12 năm. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, ông kiên quyết từ quan về quê nhà, sông cuộc đời thanh bạch, bình dị cho đến lúc mất.
Nguyễn Khuyên làm nhiều thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm. Thơ ông nói lên tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu gia đình, bè bạn; phản ánh cuộc sống khổ cực, thuần hậu, chất phác của nhân dân; châm biếm, đả kích bọn quan lại phong kiến, bọn thực dân xâm lược, đồng thời bộc lộ tấm lòng ưu ái đối với dân, với nước.
Bài thơ “Thu điếu” nằm trong chùm thơ ba bài của Nguyễn Khuyên viết về mùa thu nông thôn quê hương ông: “Thu vịnh”, “Thu điếu”, và “Thu ẩm”.
Theo Xuân Diệu, “Nguyễn Khuyến nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam là về thơ Nôm. Mà trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyên, nức danh nhất là ba bài thơ Thu: Thu điểu, Thu ẩm và Thu vịnh”.
Cả ba bài thơ là thơ Nôm nhưng có tựa đề là chữ Hán. “Thu điếu” có nghĩa là Câu cá mùa thu. Đây là bài thơ đậm hồn quê nhất trong cả ba bài thơ.
Đọc - Hiểu văn bản
Cảnh thu
Nếu ở Thu vịnh, cảnh thu được đón nhận từ cao xa tới gần rồi từ gần tới cao xa thì ở Thu điếu, cảnh thu được đón nhận từ gần đến cao xa rồi từ cao xa trở lại gần: Từ chiếc thuyền câu nhìn ra mặt ao, nhìn lên bầu trời, nhìn tới ngõ trúc rồi lại trở về với ao thu, với thuyền câu. Từ một khung ao hẹp, không gian mùa thu, cảnh sắc mùa thu mở ra nhiều hướng thật sinh động.
Cảnh trong Thu điếu là “điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam” (Xuân Diệu). Không khí mùa thu được gợi lên từ sự dịu nhẹ, thanh sơ của cảnh vật (màu sắc: nước trong veo, sóng biếc, trời xanh ngắt-, đường nét, chuyển động: sóng hơi gợn tí, lá vàng sẽ đưa vèo, tầng mây lơ lửng-, hoà sắc tạo hình: “cái thú vị của bài “Thu điếu” ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi”-, ao thu nhỏ, chiếc thuyền câu theo đó cũng bé tẻo teo và dáng người cũng như thu lại). Nét riêng của làng quê Bắc Bộ, cái hồn dân dã được gợi lên từ khung ao hẹp, từ cánh bèo, từ ngõ trúc quanh co.
Cảnh trong Thu điểu là cảnh đẹp nhưng tĩnh lặng và đượm buồn. Không gian Thu điểu là một không gian tĩnh lặng, vắng người, vắng tiếng: “Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. Các chuyển động rất nhẹ, rất khẽ không đủ tạo âm thanh: sóng hơi gợn, mây lơ lửng, lá sẽ đưa. Một tiếng động duy nhất - tiếng cá đớp mồi càng làm tăng sự yên ắng, tĩnh mịch của cảnh vật. Cái tĩnh bao trùm được gợi lên từ một cái động rất nhỏ. Đậy là nghệ thuật lấy động nói tĩnh, một thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của thơ cổ phương Đông.
Tình thu
Nói câu cá nhưng thực ra không phải chú ý vào việc câu cá. Nói câu cá nhưng thực ra là đón nhận trời thu, cảnh thu vào cõi lòng.
Cõi lòng nhà thơ yên tĩnh, vắng lặng. Tĩnh lặng trong sự cảm nhận độ trong veo của nước, cái hơi gợn tí của sóng, cái độ rơi se sẽ của lá. Đặc biệt sự tĩnh lặng trong tâm hồn thi nhân được gợi lên một cách sâu sắc từ tiếng động duy nhất của bài thơ: tiếng cá đớp mồi dưới chân bèo. Cái động rất nhỏ ở ngoại cảnh lại gây ấn tượng đậm đến thế, là bởi tâm cảnh đang trong sự tĩnh lặng tuyệt đôi.
Sự tĩnh lặng đem đến sự cảm nhận về một nỗi cô quạnh, uẩn khúc trong tâm hồn nhà thơ. Trong bức tranh Thu điếu xuất hiện nhiều gam màu lạnh: độ xanh trong của nước, độ xanh biếc của sóng, độ xanh ngắt của trời. Cái lạnh của cảnh, của ao thu, trời thu thấm vào tâm hồn nhà thơ lan tỏa ra cảnh vật? Dễ thường có cả hai. Có người cho rằng câu thơ “Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo” có phần không hợp lí: lá vàng khẽ đưa trước gió không thể có độ “vèo” khi bay. Thực ra điều có vẻ không hợp lí ấy lại rất logic, rất thông nhất trong tâm trạng. Từ “vèo” chính là sự thể hiện tâm sự thời thế của nhà thơ. Một tâm sự đầy đau buồn trước hiện tình đất nước đau thương.
Qua bài Thu điếu, người đọc cảm nhận ở Nguyễn Khuyên một tâm hồn gắn bó tha thiết với thiên nhiên, đất nước, một tấm lòng yêu nước thầm kín nhưng không kém phần sâu sắc.
Thành công nghệ thuật
Tiếng Việt trong Thu điếu giản dị, trong sáng đến kì lạ, có khả năng diễn đạt những biểu hiện tinh tế của sự vật, những uẩn khúc thầm kín rất khó giãi bày của tâm trạng. Đặc biệt, vần “eo” - tử vận, oái oăm, khó làm - được
Nguyễn Khuyến sử đụng một cách rất thần tình. Đây không đơn thuần là hình thức chơi chữ mà chính là dùng vần để biểu hiện nội dung, vần eo góp phần diễn tả một không gian thu nhỏ dần, khép kín, phù hợp với tâm trạng đầy uẩn khúc cá nhân.
Thu điếu thể hiện một trong những đặc sắc của nghệ thuật phương Đông: lấy “động” để nói “tĩnh”. Để gợi cái yên ắng của cảnh vật, cái tĩnh lặng của tâm trạng, tác giả đã xen vào bức tranh thu một nét động duy nhất: “Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.
c. Tổng kết:
Trong thơ Nôm CỈXL Nguyễn Khuyến, nức danh nhất là ba bài thơ mùa thu: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh, trong đó Thu diếu điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam.
ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề: Chỉ ra nét độc đáo của bài “Câu cá mùa thu” so với hai bài “Uôhg rượu mùa thu” và “Vịnh mùa thu” của Nguyễn Khuyến.
BÀI VIẾT GỢl ý
Mùa thu ở đất Bắc là khoảng thời gian kết thúc cái oi nồng của mùa hạ, chưa kèm theo mưa dầm gió bấc của mùa đông.
Mùa thu đẹp vì có những đêm trăng vằng vặc, những ngày xanh thắm tuyệt vời.
Đối với các nhà thơ cận đại, kể cả các nhà thơ lớn nữa thì mùa thu là mùa của cảm xúc, của thương nhớ. Trong làng thơ Việt Nam sau Nguyễn Khuyến, Tương Phố, Tản Đà, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu... đều có những bài thơ thu nổi tiếng. Tuy vậy, giữa Tam nguyên Yên Đổ và các nhà thơ mới đang có một khoảng cách. Thơ thu của Nguyễn Khuyến là thơ của làng cảnh Việt Nam đậm đà, chân thực dù tác giả có gửi gắm vào thơ vài lời tâm sự. Thơ thu của các nhà thơ mới từ Giọt lệ thu (Tương Phố), Tiếng thu (Lưu Trọng Lư) đến Đây mùa thu tới (Xuân Diệu) chỉ mượn cảnh thu, sắc thu, màu thu, âm thanh mùa thu để gửi gắm tâm trạng đượm buồn hay lưu luyến, bâng khuâng trước đất trời đã chuyển sang thu.
Chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến là hiện tượng độc đáo và là cống hiến xuất sắc của nhà thơ.
Cả ba bài đều viết theo thể thất ngôn bát cú luật Đường. Mỗi bài là một phác thảo với nét bút của nền hội họa phương Đông, không rườm rà lòe loẹt mà cũng không gò bó khuôn sáo. Nhà thơ - họa sĩ họ Nguyễn đã đưa chúng ta về một vùng chân quê quanh năm ngập nước của đất Hà Nam đầu thê' kỉ này (thế kỉ XX - NBS') vào độ thu sang.
Thu vịnh khái quát những đặc điểm nổi bật về mùa thu.
Thu điếu dừng lại ở một không gian và thời gian cụ thể: Trên một ao thu, vào một chiều thu, một ông già trên chiếc thuyền câu thả mồi đợi cá.
Thu ẩm quan sát cảnh thu trong nhiều thời điểm khác nhau để thâu tóm những nét nên thơ nhất.
Cảnh thu trong Thu vịnh đã được nhà thơ phác họa như thế nào?
Phần lớn dung lượng bài thơ (6/8 câu) là thơ tả cảnh. Biên độ không gian và thời gian không hạn chế: Một buổi sáng, một cảnh chiều, một đêm trăng đượm màu thu. Ta vẫn bắt gặp trời {Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao / cần trúc lơ phơ gió hắt hiu), nước {Nước biếc trông như tầng khói phủ), trăng {Song thưa để mặc bóng trăng vào), hoa {Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái), có điểm xuyết âm thanh vọng lại từ không trung cao vút {Một tiếng trên không ngỗng nước nào) nhưng điệu thơ, hồn thơ thì đã vượt khỏi khuôn sáo kiểu tứ thời, tứ thú, tứ quý... của nét bút thơ và họa cổ điển.
Nét thu quán xuyến tất cả là bầu trời không ủ dột, quẩn quanh, tù túng mà cao vời vợi, cao ngất mấy từng, cao hút tầm mắt... và thăm thẳm màu xanh huyền diệu. Giữa trời thu bao la ấy, một khóm tre xa xa từ thôn vắng lả ngọn theo làn gió thu nhẹ nhàng uyển chuyển càng tô thắm sắc thu: “Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu” như làm sông động bầu trời vốn tĩnh lặng.
Đối chiếu với trời thu là sông thu vào sáng tinh mơ, lúc màn đêm đã vén hay vào buổi chiều tà, lúc bóng ô vừa ngậm non đoài, thời điểm “long lanh đáy nước in trời”-, nước biếc dội lên màu xanh thơ mộng, tạo nên ảo ảnh màn khói mênh mông mà các nhà thơ cổ điển thường gọi là “yên ba giang thượng” (khói sóng trên sông). Trời thu và nước thu, “Thu thủy cộng trường thiên nhất sắc” (trời nước một màu) là như vậy.
Sau thu thiên, thu thủy là thu nguyệt. Trăng thu sáng dịu trong trẻo tuyệt trần. Xưa nay trăng vốn là bạn của thi nhân. Trăng là kẻ đồng hành “chè tiên, nước ghín, nguyệt đeo về” (Nguyễn Trãi); “Một trăng, một bóng, một người hóa ba” (Nguyễn Huy Tự). Trăng là người chứng giám: “Vầng trăng vằng vặc giữa trời / Đinh ninh hai miệng một lời song song” (Nguyễn Du). Có khi trăng là kẻ thóc mách “Gương Nga chênh chếch dòm song” (Nguyễn Du). Nguyễn Khuyên không cài song để đón trăng và ngắm trăng; chẳng biết trăng ở đây có vào đòi thơ Tam nguyên Yên Đổ như nó đã lọt qua cửa sổ đòi thơ Hồ Chí minh: “Trăng vào cửa sổ đòi thtf’ {Tin thắng trận). Hẳn là chỉ có trăng thu mới thân quen với con người đến thế !
Bây giờ đến hoa thu. “Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái”, ý nhà thơ muôn nói: Mấy chùm hoa trước giậu đã nở từ năm ngoái nay lại đã trổ bông chăng? Và hoa thu chỉ là hoa cúc, một trong bôn loài hoa quý (lan, sen, cúc, mai) chọn mùa hu để trổ hoa {Vì chưng tham chút nhị vàng / Cho nên cúc phải muộn màng sang thu - Hát phường vải).
Điểm xuyết cảnh thu là tiếng ngỗng trời từ trên không xa tít vọng lại. Âm thanh không líu lo như con chim oanh học nói trong tiết xuân sang {Truyện Kiểu) mà chỉ thoáng qua như nâng thêm tầm cao rộng của không gian, hẳn là đàn ngỗng đang bay nhanh về phương Nam để tránh rét, thường bắt gặp trong kì thu muộn.
“Nhân hứng” mà tác giả đã vẽ xong bức tranh thu. Say theo cảnh trí thơ mộng nhưng rồi chợt tỉnh. “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” - Ông Đào Bành Trạch treo ấn từ quan từ hồi còn trẻ, trở về vui với cỏ hoa và non xanh nước biếc. Nguyễn Khuyến cũng đã vứt miếng đỉnh chung về ở ẩn tại quê nhà. Có lẽ danh Nho Nguyễn Khuyến “thẹn với ông Đào” bởi ông tự cho là mình từ quan hơi muộn?
Với Thu vịnh, chúng ta cảm thu bằng “nhân hứng" chung mà nhà thơ để lại; với Thu điếu, chúng ta có một thú vui thu nhỏ mà cũng rất hấp dẫn.
Nơi quê hương nhà thơ trước đây lắm ao, lắm vũng. Có lẽ không riêng gì Nguyễn Khuyến mà dân quê cả vùng, nhất là các ông già, lúc rảnh rỗi thường lên thuyền nan ngồi thả mồi đợi cá, coi đó là một thú tiêu khiển chàng? Đối với cụ Tam nguyên, mùa thu câu cá quả là một lạc thú.
Ông thả thuyền xa bờ để được đắm mình trong thiên nhiên bao la, trời nước một màu. Chỉ có câu kết nói đến chuyện thả câu, bài thơ chủ yếu ghi nhận những quan sát và cảm nhận của nhà thơ về cảnh vật đang diễn ra quanh mình. Ớ đây mọi chi tiết đều được chắt lọc sao cho mỗi cảnh sắc chỉ cần diểm một nét, cộng hưởng thành màu sắc thu đích thực và độc đáo. ông kết hợp tuyệt diệu hình ảnh và từ ngữ. Cả bức tranh có vẻ tĩnh lặng nhưng từng chi tiết thì động và gợi cảm.
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo”-. Nước tinh khiết và lạnh gây cảm giác rùng mình. Thuyền câu vốn đã bé nhỏ khi nhập vào không gian bao la nó càng thêm bé xíu “bé tẻo teo". Ngư ông dường như cảm thấy mình quá bé trước cái tối vĩnh, tối đại của tạo hóa.
Thuyền vừa xa bờ, cận cảnh dẫn đến một cảm giác thu mới, phẳng lặng, trong xanh vốn là đặc tính của mặt nước ao thu, hồ thu. Chỉ thế mà sau này Tản Đà đã viết: “Trời xanh xanh, nước xanh xanh, khói lam xây thành”, màu biếc xao động khi gió thu khẽ khàng lướt qua. “Hơi gợn tí” nhưng cũng đủ mạnh để đưa chiếc lá già của cây cao gần bờ lìa cành “đưa vèo” xoay xoay giũa không gian theo chiều gió... Gió thu là như vậy.
Bình giảng hai câu 3-4, Xuân Diệu đã viết: “Thật tài tình ! Nhà thơ đã tìm được cái tốc độ bay của lá, vèo, dễ tương xứng với cái mức độ gợn của sóng: tí”. Tác giả Đây mùa thu tới quả thật đã phát hiện đầy đủ tài nghệ của Nguyễn Khuyến.
Chắc là sau khi đã buông cầu, nhà thơ có dịp ngẩng đầu nhìn trời và làng mạc vây quanh. Trời thăm thẳm một màu xanh, vài đám mây bạc lững lờ trôi như tôn thêm độ cao xa của không gian (Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt).
Đường đi lối lại trong thôn viền rặng trúc uổn lượn vòng vèo không ồn ào náo nhiệt như những ngày mùa mà êm đềm u tịch... Nhà thơ “tựa gối ôm cần” chìm đắm vào cảnh vật tựa sống trong mơ...
Câu kết thúc “Cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Tiếng động của cá đớp mồi đã trả nhà thơ về cõi thực. Nguyễn Khuyến là ngư ông trên chiếc thuyền nan mỏng mảnh.
Với Thu ẩm, nhà thơ Hà Nam đưa chúng ta về nhiều thời điểm khác nhau trong nhiều ngày để cảm nhận vẻ đẹp mùa thu.
Mở đầu bài thơ, tác giả nói về một ngôi nhà xuềnh xoàng ở tận sâu trong làng Và (VỊ Hạ) nơi cụ Thượng quan hưu trí thường độc ẩm để tìm cách lãng quên thế sự; bởi vì người xưa đã nói: “Chỉ có rượu mới phá được thành sầu”.
Từ “năm gian nhà cỏ” này, ông nhập vào cảnh thu và quan sát những nét thu khi chiều về, vào đêm tôĩ hay buổi trăng thu viên mãn. Thu ẩm thường diễn ra trong ngôi nhà này vào những thời điểm kể trên. Không có bóng dáng buổi mai hồng hay thời chính ngọ trong thơ thu. Phải chăng những thời điểm đó không hợp với tạng của nhà thơ? Hai buổi đêm và hai buổi chiều lần lượt xuất hiện trong Thu ẩm.
Một đêm không trăng, dày đặc bóng tối trùm lấp đường ngõ, “lập lòe” ánh sáng đom đóm vây bủa đường thôn (Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe). Một đêm khác trăng soi vằng vặc “bóng trăng vàng từ mặt nước ao lóe ra, bốh chữ l gợi chất vàng (đang dàn trải) ba dấu sắc khứ thanh gợi ánh bắn đi, từ loe gợi (vòng tròn đang lan tỏa)” (Xuân Diệu) - (trong ngoặc ( ) là ý của người soạn - H.H.Y). Nguyễn Khuyên dùng thần bút để cực tả đêm thu.
Một buổi chiều nhẹ thênh, từ “nhà cỏ” hay từ bếp nhà ai tỏa ra làn khói lam chiều? Một net thần thương và trìu mến biết bao ! Và một buổi chiều khác không còn “tầng mây lơ lửng”, chỉ có da trời ửng màu xanh biếc bao la vô hạn. Nét phác họa đặc thù này vốn là sở trường của Nguyễn Khuyên.
Phần kết, tác giả đã gửi gắm ít nhiều tâm sự: “Mắt lão không vầy củng đỏ hoe ... Rượu năm ba chén đã say nhè”. Đâu phải vô cớ mà mắt lão Nguyễn “đỏ hoe”. Cũng không phải vô cớ mà lão uống ít say nhiều (say không tự chủ được sinh lè nhè). Ồng uống rượu để tiêu sầu nhưng sầu đâu có dứt !
Trong bộ ba thơ thu tuy tác giả không trực tiếp nói đến nhưng vẫn không sao che giấu nổi: Tâm sự nước non đầy vơi dường như chi phối cả cuộc đời và cảm hứng thơ văn của tác giả. Quý thay Nguyễn Khuyến !
Ba bài thơ thu là những viên ngọc quý trong vườn thơ Việt Nam. Nó đậm đà màu sắc quê hương đất nước. Hình tượng và ngôn ngữ thơ đạt đến đỉnh cao của sự giản dị mà đầy chất thơ. Từ nét bút tạo hình đến các thủ pháp nghệ thuật khác như sử dụng từ ngữ trau chuốt, chính xác, đôĩ ngẫu rất chỉnh, gieo vần phong phú, độc đáo (kể cả tử vận), kết hợp nhạc điệu và âm thanh tinh tế,... cả ba bài đều viết theo thể thơ luật Đường hoàn chỉnh nhưng người đọc không có cảm giác đó là thể thơ ngoại lai. Nối gót nữ sĩ Hồ Xuân Hương và các nhà thơ Nôm lớp trước, Nguyễn Khuyến đã góp phần Việt hóa đến kì tài thể thơ ngoại nhập này.
Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm xứng đáng được treo giải nhất trong toàn bộ thơ về làng cảnh Việt Nam.
Theo Hoàng Hữu Yên
TƯ LIỆU THAM KHẢO
NỘ! DUNG THƠ VĂN NGUYỄN KHUYẾN
Tấm lòng yêu nước thiết tha sâu nặng
Tư tưởng yêu nước của Nguyễn Khuyến
Tư tưởng yêu nước của Nguyễn Khuyến trước hết gắn liền với tư tưởng trung quân. Đây là một tư tưởng yêu nước hết sức chân chính, tiến bộ. Nguyễn Khuyến vừa là nhà Nho vừa là một ông quan từng hưởng bổng lộc của triều đình nên tư tưởng trung quân đậm nét. Trong “Di chúc”, ông thể hiện rõ quan điểm của mình: “Khỉ đưa Thầy con rước đầu tiên / Cờ biển của vua ban ngày trước”.
Sống giữa thời kì nước mất, nhà tan, Nguyễn Khuyến không đành nhìn đất nước rơi vào tay giặc, lại không cam tâm ở lại triều đình để làm bù nhìn nên ông quyết định xin cáo quan về ở ẩn. Lòng Nguyễn Khuyến từng nhiều lần chua xót về quyết định này:
Khứ quốc khởi vô bằng bối tại,
Quy gia vị tất tử tôn hiền'?
. (Cảm tác)
Dịch nghĩa: Bỏ chức há không bạn bè ở lại / về nhà vị tất con cháu đã khen hay?
Về sau, thời cuộc biến chuyển, nhiều người tiếp tục từ quan. Nguyễn Khuyến thấy rất rõ họ không phải là kẻ bất tài, mà trái lại, đó là những kẻ dũng thoái:
Khả hạnh chư quân năng dũng thoái,
Vị ưng nhất chức tẫn phỉ tài.
Bách niên tứ hà vi giả,
Ngô ấp khâu lăng diệc mỹ tai !
(Vũ hậu xuân túy cảm thành)
Dịch nghĩa:
Đáng mửng các bạn mạnh dạn dám lui về,
Đâu phải là đối với chức vụ mình không làm nổi.
Cuộc đời trăm năm xe ngựa có ra trò gì,
Mà ở quê chúng ta gò núi vẫn tươi đẹp lắm !
(Cảm hoài sau bữa chén xuân sau cơn mưa)
Sau khi cáo quan, Nguyễn Khuyên sống ở làng quê và xem quê hương như chiếc nôi, chỗ dựa vững chắc cho cuộc sông bình dị của mình. Ông sống khiêm tốn, trong sạch, giữ tiết tháo, chan hòa với mọi người. Ông thường làm các bài thơ ngâm vịnh ca ngợi vẻ đẹp của các loài hoa, ca ngợi công dụng các loài cây, qua đó muốn nói đến cái đức của mình.
Nguyễn Khuyên còn nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn của con người nhằm khẳng định phẩm chất trong sạch của ông. ông quan niệm:
Ngoại mạo bất cầu như mĩ ngọc,
Tâm trung thường thủ tự kiến kim.
Lời ca ngợi tiết tháo của người đàn bà đáng thương trong bài thơ “Mẹ Mốc” của Nguyễn Khuyên có cái gì giông như sự quyết tâm của nhà thơ:
Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết,
Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ.
Nguyễn Khuyên là người coi trọng danh dự và khí tiết nên nhiều lần nhà thơ từng trăn trở về vấn đề này:
Thế đồ kim hựu đa kha khảm,
Lợi cục nan năng quả oán vưu.
Vị ngã phất tu chung hữu khích,
Thức nhân thỏa diện tích bằng ưu.
(Tiểu thán)
Dịch nghĩa:
Trên đường đời, nay lại gặp nhiều bước gập gềnh,
Trong cuộc đời khó giữ được ít lời oán trách.
Kể phẩy râu cho mình, rốt cuộc củng gây nên hiềm khích,
Người ta nhổ vào mặt mình chùi đi, đời xưa còn cho là đáng lo.
(Vài lời than)
Có thể nói, hành động ở ẩn của Nguyễn Khuyến cũng là cách để nhà thơ giữ phẩm chất của mình. Nhiều bài thơ tiêu biểu có tính chất triết lí cao: “Di chúc”, “Vườn Bùi chốn củ”, “Vịnh cây tùng”, “Cây lược đồi mồi”, “Mẹ Mốc”, “Xuân dạ lân nga”, “Nhân tặng nhục”, “Tiểu thán”...
Sự quan tâm lo lắng cho đất nước
Thể hiện qua nỗi đau của nhà thơ khi không làm được gì để thay đổi thời cuộc. Lời thơ thường đượm buồn, đầy nước mắt khi nói về đất nước: “Đời loạn
người về như hạc độc / Tuổi già hình bóng tựa mây côi” (Cảm tác)', “Sách vở ích gì cho buổi ấy / Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già” (Ngày xuân dặn các con)...
Hình ảnh quê hương, đất nước xuất hiện trong thơ ông khi trực tiếp, khi gián tiếp, khi cụ thể nhưng đều dưới dạng trữ tình ảm đạm của nhà thơ: “Cố quốc sơn hà chân thảm đạm” (Hung niên), “Nhất độ giang sơn nhất bạch đầu” (Thu tứ)...
Nhà thơ từng mượn tiếng cuốc kêu để thể hiện tâm trạng nhớ nước da diết, khắc khoải của mình. Bài thơ “Cuốc kêu cảm hứng" như một lời nỉ non tâm sự, từng làm xao xuyến tâm hồn bao thế hệ khi gợi nhớ non sông.
Nói chung, âm điệu trong phần lớn thơ trữ tình của Nguyễn Khyến là buồn. Nghe tiếng hát giữa đêm khuya hay tết đến, xuân về đều khiến nhà thơ buồn tê tái: “Xuân về ngày loạn còn lơ láo / Người gặp khi cùng củng ngất ngơ”.
Thái độ phản kháng đốì với xã hội thực dân nửa phong kiến
Đối với thực dân Pháp
Nguyên Khuyến đả kích những việc làm gây tiêhg vang ầm ĩ lúc bấy giờ, lên án những thủ đoạn bóc lột sức người, sức của của nhân dân. Bọn chúng đã đẩy hàng vạn người dân vô tội đêh chôn ma thiêng nước độc. Bài thơ “Hội Tây”, “Hoài cổ”... đã phản ánh thực trạng đó bằng bút pháp hiện thực trào phúng sâu sắc: “Hỡi ôi ! / Ông ở bên Tày / Ông qua bảo hộ / Cái tóc ông quăn / Cái mũi ông lõ / Đít ông cưỡi lừa / Miệng ông huýt chó / Lưng ông đeo súng lục liên / Chân ông đi giày có mỏ/ Ông dẹp cờ đen / Để yên con đỏ / Ai ngờ / Nó bắt được ông / Nó chặt mất sỏ / Cái đầu ông đâu? / Cái đít ông đó / Khốn khổ thân ông...
Đối với bọn quan lại, bọn me Tây, gái điếm
Nguyễn Khuyến từng làm quan nên đã thấy rõ hiện thực quan trường và thế giới khoa bảng nói chung là đổ nát và thảm hại.
Ngòi bút ông đã vạch trần nhiều mặt xấu xa, thối nát của bọn quan lại nào là bất tài, vô dụng, dốt nát, chỉ là thứ phỗng đá không hơn không kém, trơ trơ trước sự nguyền rủa của dân.
Thái độ của Nguyễn Khuyên rất dứt khoát, ông mắng chúng không kiêng nể. Bằng lối nói mát, chửi mát theo kiểu Việt Nam “nói ngọt mà lọt đến xương”, Nguyễn Khuyến đả kích, châm biếm, xỏ ngầm rất thâm và độc. Thậm chí khi cần, ông cũng chuyển roi quất mạnh bằng các biện pháp nghệ thuật độc đáo như chơi chữ, nói láy, dùng từ đa nghĩa, dùng âm của chữ Hán chuyển sang từ Việt.
Bồ chứa miệng dân chừng bật cạp,
Tiên là ý chú muốn vòi xu.
Từ vàng sao chẳng luôn từ bạc,
Không khéo mà roi nó phết cho.
(Bồ tiên thi)
Các bài thơ tiêu biểu như “Ông phỗng đá”, “Lời vợ người hát chếo”, “Hỏi thăm quan tuần bị mất cướp", “Bồ tiên thi”, “Tặng ông Đốc học Hà Nam” đều là những bài thơ vạch mặt, chỉ tên những tên quan bất tài, hống hách bằng thái độ châm biếm, tô' cáo sâu sắc.
Trong bài thơ chữ Hán “Quá quận công Hữu Độ sinh từ hữu cảm” là thái độ khinh bỉ, mỉa mai của Nguyễn Khuyến đả kích tên Nguyễn Hữu Độ, sau khi hắn chết, đi qua sinh từ của hắn, nhà thơ nghĩ: “Công tại, tứ thời tập quan đới / Đắc dự giả hỉ, bất dự bi / Công khứ, quan đới bất phục tập / Hương hỏa tịch tịch hoà li li / Dản kiến đệ nhị vô danh công / Triêu tịch huề trượng lai vu ti / Trần gian hưng phế đẳng nhàn sự / Bất tri cửu nguyên thùy dữ quy'?
Dịch nghĩa: Khỉ ông còn thì áo mủ cân đai bốn mùa tấp nập / Kẻ được dự vào đó thì mừng, kẻ không được dự thì buồn / Sau khi ông mất rồi thì không thấy mũ áo xúm xít lại nữa / Hương lửa vắng tanh, lúa mọc rườm rà / Chỉ thấy có ông Thứ nhì không tên / Sớm sớm chiều chiều chống gậy vào ngôi nhà ấy ỉ Ở đời có lúc thịnh, lúc suy, đó là việc thường / Không biết dưới chín suối bây giờ ông theo ai?
(Cảm nghĩ lúc qua sinh từ quận công Nguyễn Hữu Độ)
Nhưng có lẽ đả kích bọn quan lại cay độc nhất là khi nhà thơ liệt chúng ngang hàng “Vợ bợm chồng quan danh pliận đó” (Đĩ cầu Nôm) dễ làm ta liên tưởng đến câu tục ngữ “mèo mả gà đồng”, là những tên không ra gì.
Đặc biệt, ngòi bút của Nguyễn Khuyên tỏ ra không khoan nhượng khi viết về bọn me Tây, gái điếm. Trong một vế câu đốì mừng cô Tư Hồng ông viết:
Có tàn, có tán, có hương án thà vua, danh giá lẫy lừng băm sáu tỉnh.
Ở một câu đốì khác:
Thôi cũng đừng cõng rắn cán gà nhà, phong lưu chú Bát, phú quý dì Tư, mây nổi đã từng qua trước mắt.
Có thể nói, cũng như các nhà thơ thuộc khuynh hướng hiện thực tố cáo giai đoạn này, Nguyễn Khuyến đã bám vào hiện tượng cụ thể để đả kích. Từng con người, từng hiện tượng và những sự việc lố lăng trong xã hội đều bị vạch trần và thể hiện rõ phong cách độc đáo của ông.
Đối với khoa danh, khoa giáp thời ấy
Khoa danh cũng bị lên án khắc nghiệt vì những tên quan lại đều xuất thân từ khoa bảng nhưng khoa bảng lúc bấy giờ lại mục nát, suy đồi. Nho sĩ không còn sĩ khí, uy thế như xưa nữa. Thế nhưng nhà Nguyễn vẫn cố duy trì ba kì thi: thi Hương, thi Hội, thi Đình nên đã sinh ra những ông Nghè, ông Công. Vì vậy, sự tương phản càng rõ nét.
Nguyễn Khuyến phê phán nhân tài của xã hội chỉ là những người không ra gì. Có danh nhung không thực. Mặc dù:
Củng cờ, củng biển, cũng cân đai.
Củng gọi ông Nghè có kém ai.
Nhưng ông lại tiếc rẻ:
Chiếc thân ciêrn áo sao mà nhẹ,
Cái giá khoa danh thế mới hời.
Ây thế còn ra dáng đường bệ:
Ghế tréo lọng xanh ngồi bảnh chọe,
Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi.
Bài thơ gợi ra mối liên tưởng tới thân phận những kẻ khoa bảng, bọn quan lại ở thời kì nước mất, nhà tan. Đạo Nho sắp đến ngày mạt vận đang cơn hấp hối nhưng nhà Nguyễn vẫn cho diễn lại cái trò lều chõng thêm vài chục năm để đào tạo tiếp tay sai phục vụ cho bộ máy bù nhìn của chúng.
Ông mai mỉa cảnh khoa cử suy đồi, đạo đức của kẻ sì bị đánh mất trước tiền tài và danh vọng. Bài thơ “Thầy đồ ve gái góa” là một ví dụ tiêu biểu:
Ở góa thế gian nào mấy mụ,
Đi ve thiên hạ thiếu chi thầy.
Yêu thầy cũng muốn cho thầy dạy,
Dạy cháu nên rồi mẹ cháu ngây.
Một tâm hồn giàu cảm xúc yêu thương
Lòng yêu thiên nhiên và cảnh vật làng quê Việt Nam
Nguyễn Khuyến cáo quan về quê nhưng ông không hề thoát li hiện thực. Lúc nào ông cũng say sưa, chan hoà với quê hương. Cảnh sắc được ông miêu tả hết sức chân thật và sôhg động.
Tả cảnh bôn mùa, đặc biệt là cảnh mùa thu thật sắc sảo, đậm nét. Cảnh mùa thu trong thơ Nguyễn Khuyến không hề ước lệ, trang trọng, khuôn sáo như trong vàn chương, sách vở mà chỉ là những cảnh gần gũi, quen thuộc như trời thu, gió thu, ao thu, trăng thu, lá thu ... được tác giả thi vị hoá hết sức tài tình. Ba bài thơ “Thu ẩm”, “Thu điếu”, “Thu vịnh" đã gợi được cái hồn, cái thần, cái tinh tế của cảnh vật màu thu, là ba bức tranh đặc sắc về cảnh nông thôn nước ta, nhất là cảnh đồng chiêm trũng miền Bắc.
Nguyễn Khuyến còn có những bài thơ tả cảnh hè (Đêm mùa hạ) và cảnh xuân (Ngày xuân) rất độc đáo.
Những bài tả cảnh núi (Vịnh núi An Lão), cảnh chùa (Về chơi chùa Đọi) đều trở thành những bài thơ hay, ca ngợi danh lam thắng cảnh của đất nước.
Nguyễn Khuyên nhìn cảnh vật bằng cặp mắt của người thưởng ngoạn và bằng tâm hồn của thi nhân nên trước vẻ đẹp của đất nước, ông đã vẽ lên một bức tranh nghệ thuật tuyệt đẹp. Cảnh sông, núi, trăng, sao, thời tiết, mùa màng qua cảm nhận của ông đều trở nên có hồn và tinh tế.
Tình cảm của Nguyễn Khuyến
Trước những nỗi điêu linh thống khổ của nhân dân
Nguyễn Khuyến là nhà thơ của nông thôn nên viết về nông thôn bằng tất cả tình cảm thân thuộc, quyến luyến. Có thể nói, trái tim ông đã rung lên cùng một nhịp với trái tim của người lao động nghèo. Ông đã sống vởi tâm trạng của họ, vui với cái vui của họ, buồn với cái buồn của họ và mơ ước cái họ từng mơ ước. Vì vậy, ông có những vần thơ xuất phát từ tình cảm chân thành của mình, thể hiện tâm trạng nhà thơ lúc nào cũng gắn bó với nhân dân:
Lão tàm ái táo, miên tương khởi,
Tân cốc hàm huyên, phúc tiệm phì.
(Hạ nhật tân tình)
Dịch nghĩa:
Tằm già thích khô ráo, đương ngủ sắp trở dậy,
Lúa mới ngậm liơỉ ấm, đòng đòng dần mẫm ra.
(Ngày hè mưa mãi mới tạnh)
Bài thơ đã ghi nhận những chi tiết sinh động và chính xác về bức tranh của cuộc sống.
Ngoài những lo toan, tính toán vì công nợ của nhà nông:
Năm nay cày cấy vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chièm, mùa mất mùa.
(Chốn quê)
Bức tranh nông thôn của Nguyễn Khuyến còn phản ánh những sinh hoạt khác, như tâm trạng vui vẻ của người nông dân vào những ngày tết, được mùa được ông ghi nhận:
Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng,
Ngoài cửa bi bô rủ chung thịt.
Hoặc cái buồn của cảnh chợ tết vào những năm mất mùa, đói khổ:
Dở trời mưa bụi còn hơn rét,
Nếm rượu tường đình được mấy ông?
Hàng quán người về nghe xáo xác,
Nợ nần năm hết hỏi lung tung.
(Chợ đồng)
Tỉnh cảm đối với gia đình, bạn bè, làng xóm
Ông sống rất chan hoà với gia đình, bạn bè, làng xóm. Những tình cảm tưởng chừng như bình thường ấy đã đi vào thơ Nguyễn Khuyên với một giá trị chân thật, đáng quý.
- Đốì với vợ, ông có tình cảm yêu kính rất đậm đà. “Câu đối khóc vạ” là một tiếng khóc chân thành của ông:
Nhà chỉn củng nghèo thay, nhờ được bà hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, tất tả chân đăm đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc.
Bà đi đâu vội mấy, để cho lão vất vơ vất vưởng, búi tóc củ hành, buông quần lá toạ, gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể lề chuyện trăm năm.
Đô'i với con, ông rất thương yêu và quý trọng các con. Lo lắng, khuyên nhủ các con sống làm người hữu ích cho xã hội, thấy các con lơ là việc đèn sách, ông khuyên bảo rất chí tình: “Khu nhà ở quây quần, không đầy chín sào đất / Nghiệp củ chẳng có gì, ngoài một bó sách / Các con nối chí cha nên biết / Bút nghiên đừng quên lúc, đậu, cà” (Ngày xuân dặn các con (1) ).
Ông không chỉ viết về gia đình mà cõn làm câu đốì, làm thơ để tặng bác thông gia, bác hàng xóm, một anh hàng thịt, một chú thợ nhuộm, thợ rèn... Bài nào cũng chân tình, giản dị.
Ông còn viết thơ thăm hỏi bạn bè, bỏ hết những khuôn sáo cầu kì, lời thơ xuất phát từ tấm lòng thành của ông (Khóc .Dương Khuê, Nước lụt thăm bạn...). Trước cái chết của bạn, Nguyễn Khuyến làm thơ thể hiện tâm trạng đau xót của mình: “Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác / Tôi lại đau trước bác mấy ngày / Làm sao bác vội về ngay / Chạt nghe tôi bỗng chân tay rụng rời / Ai chẳng biết chán đời là phải / Sao vội vàng đã mải lên tiên / Rượu ngon không có bạn hiền / Không mua, không phải không tiền, không mua” (Khóc Dương Khuê).
NGHỆ THUẬT THƠ VÃN NGUYỄN KHUYẾN
Ngôn ngữ
Đặc điểm chung
Ngôn ngữ thơ Nguyễn Khuyên rất phong phú không những trong cách nói mà còn rất mĩ lệ, gợi cảm trong cách miêu tả.
Nguyễn Khuyên còn có biệt tài khai thác khả năng diễn tả của từ ghép, từ láy rất độc đáo: thấp le te, dóm lập lòe, tẻo teo, ve ve, tênh nghếch, làng nhàng, khỏe khoe...
Năm gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe.
(Thu ẩm)
Nhiều danh từ, những cách nói, những thành ngữ, tục ngữ dùng ở nông thôn được ông sử dụng khá thành thạo: Xôi bánh trâu heo, anh em hàng xóm, văn dai như chão, người ba đấng, của ba loài...
Ông có làm một bài thơ cùng tên với câu tục ngữ dân gian “Nhất vợ nhì trời” để lí giải vì sao như vậy:
Trời dẫu yêu vì nhưng có phận,
Vợ mà vụng dại đếch ăn ai.
Cớ sao vạ lại hơn trời nhỉ?
Vợ chỉ hơn trời có cái chai !
Ông tiếp tục truyền thông học tập ca dao, tục ngữ của những nhà thơ Nôm các thế kỉ trước, nhưng ông có lối sáng tạo riêng.
Ca dao có câu “Gái có chồng như gông đeo cổ” thì nhà thơ làm bài thơ “Muôn lấy chồng” phát triển cái tứ ngược lại:
Mới biết có chồng như Cũ cánh,
Giang sơn gánh vác nhẹ bằng lông.
Ngôn ngữ trào phúng
Ngôn ngữ trào phúng của Nguyễn Khuyến nhẹ nhàng, hóm hỉnh, nhiều cung bậc. Trào phúng của Nguyễn Khuyến có nét riêng không giống như Hồ Xuân Hương hay Tú Xương là “đánh một cái cho chết”. Cái cười của ông đối với kẻ thù tuy có cay nhưng không độc địa bốp chát, mặc dù ông có so sánh cờ nước Pháp với váy phụ nif:
Ba vuông phất phới cờ bay dọc,
Một bức tung hoành váy xắn ngang.
(Lấy Tây) ■
Ông có biệt tài cường điệu và chơi chữ rất tài tình:
Văn hay chữ tốt ra tuồng,
Văn dai như chão, chữ vuông như hòm.
Vẻ thầy như vẻ con tôm,
Vẻ tay ngoáy cám, vẻ mồm húp tương.
(Đùa chế ông đồ Cự Lộc)
Hoặc cái dí dỏm của câu đốì tết viết giùm người hàng thịt:
Tứ thời bát tiết canh chung thủy,
Ngạn liễu đôi bồ dục điểm trang.
Các bài thơ tiêu biểu như “Than già”, “Bạn đến chơi nhà”, “Tự trào”, “Bóng đè cô đầu”, “Tạ lại người cho hoa trà”, “Lấy Tây”, “Đùa chê' ông dồ Cự Lộc”, “Câu đối tết”... đều là những vần thơ trào phúng độc đáo của Nguyễn Khuyến.
Ngôn ngữ tả cảnh
Nguyễn Khuyến rất thành công trong việc miêu tả cảnh sắc thiên nhiên. Thơ du vịnh và thơ bốn mùa không chỉ tả cảnh mà còn miêu tả tâm trạng của nhà thơ.
Ngôn ngữ tả cảnh rất chính xác, cách chọn chữ, dùng từ thích hợp, từ ngữ thường ìấp láy giàu nhạc điệu, có khả năng gợi tả cao.
Sử dụng vốn ngôn ngữ bình dân nhưng không hề rơi vào sự thông tục hóa, cảnh nào cũng được vẽ, được chạm khắc thần tình đạt đến mức nghệ thuật.
Hình ảnh
Hình ảnh sử dụng thường đơn sơ, giàu sức khơi gợi, thể hiện qua những chi tiết thật bình dị, sông động. Nó có giá trị nâng cáo câu thơ làm tăng sức biểu cảm. Hình ảnh hoa nở, trăng trôi, chiếc thuyền thấp thoáng, bé tẻo teo, ngõ trúc quanh co, thấp le te, đóm lập lòe... đầy sức sông.
Thơ ông có sự kết hợp hài hòa giữa âm thanh và màu sắc gợi cảm giác vừa xem tranh thủy mặc, vừa nghe thơ Đường.
Âm thanh của tiếng muỗi, tiếng dế, tiếng ngỗng, tiếng trâu thở, tiếng hạc bay, tiếng chó sủa, tiếng sóng vỗ đã lột tả được đặc điểm của ngoại cảnh và tâm lí:
Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên vách,
Tiếng sóng long bong vỗ trước nhà.
(Vịnh lụt)
Màu sắc tuyệt diệu có khả năng gợi tả cao: Màu xanh của nước, màu xanh của trời, xanh của ngọc, xanh của tre, xanh của bèo, màu đỏ hoe của mắt, màu sương chiều, màu sáng của trăng đã tạo nên màu sắc đậm nhạt, mờ ảo, thanh đạm, lặng lẽ. “Làn ao lóng lánh bóng trăng loe" dễ gây ấn tượng thị giác.
Nguyễn Khuyến là bậc thầy trong việc sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh, nhất là trong việc tả cảnh sắc thiên nhiên. Ông được mệnh danh là “nhà thơ của làng cảnh Việt Nam” vì những cảnh, người, vật qua cảm nhận của ông đều đậm đà phong vị của quê hương, đất nước. Nguyễn Khuyến đã có những cống hiến quan trọng làm cho ngôn ngữ đi sát với đời sống, và ông đã thành công trong việc chuyển cái tinh túy của đời thường thành thơ.