Soạn bài Tâm trạng của người thôn nữ trong bài thơ "Mưa xuân" của Nguyễn Bính

  • Tâm trạng của người thôn nữ trong bài thơ
  • Tâm trạng của người thôn nữ trong bài thơ
  • Tâm trạng của người thôn nữ trong bài thơ
  • Tâm trạng của người thôn nữ trong bài thơ
  • Tâm trạng của người thôn nữ trong bài thơ
  • Tâm trạng của người thôn nữ trong bài thơ
  • Tâm trạng của người thôn nữ trong bài thơ
TÂM TRẠNG CỦA NGƯỜI THÔN NỮ
TRONG BÀI THƠ “MƯA XUÂN” CỦA NGUYEN BÍNH
Nguyễn Bính đã ghi dấu ấn của mình trên những trang thơ tài hoa thấm đẫm hồn quê, tình quê. vẻ đẹp chân quê ấy, ngày nay như một của hiếm nên những vần thơ của Nguyễn Bính dường như lại càng có sức lay động, thức tỉnh người nhà quê trong chúng ta một cách mãnh liệt. Không gian ấy dệt nên những duyên tình đôi lứa, cho ta chứng kiến chất mộc mạc dân dã mà rất tinh tế, nhẹ nhàng của những trai làng, thôn nữ. Những cô gái quê vào thơ ông thật đẹp:
Em là con gái trong khung cửi,
Dệt lụa quanh năm với mẹ già...
Cô gái quê trong bài thơ “Mưa xuân” đã thật sự làm ta nhớ nhung một vẻ đẹp chân quê làm nên hồn thơ Nguyễn Bính !
Trên nền không gian mưa xuân đặc trưng đất Bắc, Nguyễn Bính đã dệt nên một thế giới của những mộng ước thật trong trẻo và làm nao lòng bất cứ những ai chớm bước vào mùa xuân đẹp nhất của cuộc đời ! Khi viết bài thơ, nhà thơ cũng đã đem vào tất cả cái trong trắng của chàng trai mười tám tuổi, giàu mơ mộng và rất đa tình, để khắc họa những rung động trước vẻ đẹp của "lòng trẻ còn như cây lụa trắng"...
Khung cảnh mở đầu của bài thơ cũng mang theo những nét quen thuộc của làng quê với nghề canh cửi, phảng phất hương vị dân gian, thật yên bình cái thuở "trai hiền bạn với gái đồng trinh" {.Hoa với rượu). Không gian như hoà điệu với lòng người trong cảnh sắc:
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay,
Hoa xoan lớp lớp rụng ren đầy.
Hai hình ảnh "mưa xuân" và "hoa xoan" như làm nên sự gắn kết rất hài hoà của mùa xuân đất Bắc. Tất cả hiện lên cảm giác nhẹ nhàng, cái "phơi phới” của mưa xuân như mang theo vẻ tươi tắn của đất trời, cái nao nức của lòng người trong mùa hội.
Nhà thơ dẫn dắt người đọc vào câu chuyện tâm tình của người con gái bên khung cửi, từ khoảnh khắc câu nói bâng quơ của mẹ: “Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ - Mẹ bảo: Thôn Đoài hát tối nay”. Đó là khoảnh khắc để cho hạt mưa xuân kia giăng mắc những tơ tình ngổn ngang lòng người thôn nữ:
Lòng thấy giăng tơ một mối tình,
Em ngừng tay lại giữa thoi xinh.
Hình như hai má em bừng đỏ,
Có lẽ là em nghĩ đến anh.
Thời gian như chứa đựng cái hồi hộp bâng khuâng của lần hò hẹn cùng người trai thôn Đoài đủ làm hai má em "bừng đỏ". Nhà thơ đã khéo léo đặt hai từ "hình nhừ' và "có lẽ" ở đầu hai dòng thơ để cắt nghĩa cho cái xao xuyến mong manh của lòng người. Thời gian đã chuyển từ ngoại cảnh vào tâm trạng, điểm nhịp theo từng hạt mưa bụi li ti "mưa chấm bàn tay từng chấm lạnh". Dường như người đọc có thể cảm nhận cái se lạnh của đất trời đã làm nên phút chờ đợi ẩn chứa bao hi vọng và tin tưởng: "Thế nào anh ấy chả sang xem". Không có một hồn thơ nhạy cảm, có lẽ khó mà diễn đạt nổi cái đợi chờ của người thiếu nữ như Nguyễn Bính ! Để rồi thời điểm hẹn hò làm cho bước chân người con gái như vội vàng nôn nả hơn:
Em xin phép mẹ vội vàng đi,
Mẹ bảo xem về kể mẹ nghe.
Mưa bụi nên em không ướt áo,
Thôn Đoài cách có một thôi đê.
Cái nao nức của tình yêu không phải như những môl tình nhuốm màu lãng mạn của văn chương thời ấy ! vẫn có chút trìu mến thương yêu của tình mẹ khi chứng kiến nỗi háo hức của con gái ! Có lẽ mẹ cũng đã trải qua thời con gái, nên hiểu nỗi lòng con gái khi chứng kiến dáng “vội vàng đi”. Cái ý nhị của tình mẹ như ẩn chứa trong lời dặn “xem về kể mẹ nghe”. Cô gái bắt đầu tách ra khỏi không gian quen thuộc với “khung cửi”, “mẹ già” để bước vào thế giới của hội làng, của những dam mê mới mẻ đầu đời. Không gian ấy qua cảm nhận của người con gái đang yêu thật đáng yêu. Cái mưa bụi “ướt đầu khô áo” làm mát mẻ thêm, tươi mới thêm cho phút được đến gần anh ! Và con đường như ngắn lại, bước chân thêm hốì hả cho con người được cảm nhận phút đến với nhau. Cái đáng yêu, đáng mến của tâm hồn người thôn nữ bộc lộ trong cách giải thích thiên nhiên, cảnh vật như hoà hợp với lòng người.
Sự thực tâm hồn được tỏ bày khi nhà thơ diễn tả cảnh xem hát chèo mà thực chất ẩn trong đó là nỗi lòng khao khát được gặp người thương của cô gái:
Thôn Đoài vào đám hát thâu đêm,
Em mải tìm anh chả thiết xem.
Chắc hẳn đêm nay giường cửi lạnh,
Thoi ngà nằm nhớ ngón tay em.
Thời gian đêm hát đã thành thời gian quý báu để cho cô gái hi vọng tìm gặp chàng trai trong đám hội chèo. Khao khát yêu đương đã lấn át đi những tích chèo, những làn điệu say người của chiếu chèo ! Người thôn nữ hiền lành chất phác đã bộc bạch nỗi lòng thầm kín của mình để câu chuyện hứa hẹn cho một tình duyên chớm hé.
Phần đầu của bài thơ “Mưa xuân” đã đem đến cho người đọc một sự hấp dẫn ý nhị của tình quê vừa e ấp cái duyên đầu đời, vừa nồng nàn rạo rực những bâng khuâng mong đợi của tuổi trẻ. Nhà thơ đã khai thác triệt để chất liệu của dân gian, của không gian cuộc sống đời thường để dựng lên một thế giới tình yêu đượm chất dân dã, khiến người đọc được chia sẻ cảm giác nôn nao, hồi hộp của lần hò hẹn đầu tiên, được thưởng thức vị ngọt của cảm giác tình yêu buổi đầu đời qua tâm hồn người thôn nữ. Bài thơ cũng thể hiện rõ phong cách lãng mạn rất đậm chất chân quê của nhà thơ Nguyễn Bính.
BÀI THƠ “TƯƠNG TƯ” CỦA NGUYỄN BÍNH
Trong các nhà thơ mới, Nguyễn Bính được xem là tiếng thơ “quen nhất”, vì thơ ông vừa là tiếng nói của thời đại mới, lại vừa như có sẵn đâu đó trong dân gian bao đời rồi. Nói cách khác, Nguyễn Bính đã tích hợp và phát huy một cách xuất sắc những truyền thông dân gian trong sáng tạo thơ mới. Người ta vẫn thấy, trong dòng “thơ quê” của thời ấy, nếu Anh Thơ thạo về cảnh quê, Đoàn Văn Cừ giỏi về nếp quê, Bàng Bá Lân nghiêng về đời quê, thì Nguyễn Bính lại đậm về hồn quê. Dù viết về những cảnh sắc hương thôn hay những mảnh đời lỡ dở, về những mối duyên quê hay những tấm tình quê, về cô' nhân hay cô' hương, về quê nhà hay quê người,.... ở đâu ông cũng làm dậy lên được hồn quê. Hồn quê ấy là sự hòa điệu của nhiều yếu tố thuộc cả nội dung và hình thức, nhưng nổi bật vẫn là sự hoà quyện giọng điệu quê với lối nói quê và lời quê.
“Tương tứ’ là bài thơ hay của Nguyễn Bính, in trong tập“Lỡ bước sang ngang”. Bài thơ được viết theo thể lục bát - thể thơ sở trường của Nguyễn Bính.
Một dấu ấn rất sâu đậm trong phong cách Nguyễn Bính là thể thơ lục bát. Trong đời sống thơ ca dân tộc vẫn có hai phong cách thơ lục bát vừa song hành vừa xâm nhập vào nhau: lục bát dân gian và lục bát cổ điển. Nếu lục bát dân gian điển hình ở ca dao, thì lục bát cổ điển lại điển hình ở Truyện Kiều của Nguyễn Du. về tổ chức lời thơ, lục bát cổ điển nghiêng về điệu ngâm, lục bát dân gian nghiêng về điệu nói. Trong phong trào Thơ mới, nếu lục bát của Huy Cận cổ điển hơn thì lục bát của Nguyễn Bính lại dân gian hơn. Nguyễn Bính được xem là một thi sĩ có sở trường, thậm chí có bản năng về lục bát. Ông viết lục bát nhanh và dễ như lời nói thường. Dáng điệu những câu lục bát của ông vừa rất thời đại, vừa phảng phất ca đao, mang được cái hồn của ca dao ở giọng điệu, cách ví von, cách lựa chọn và tổ chức lời thơ,...
Bài thơ thể hiện tâm trạng tương tư của một chàng trai quê.
Tâm trạng tương tư
Tương tư là nỗi nhớ nhau của tình yêu đôi lứa. Nhưng trên thực tế, từ “tương tứ’ thường được dùng để diễn tả nỗi nhớ đơn phương. Tương tư là tâm trạng nảy sinh khi có sự xa cách về không gian và cả thời gian (cũng có những khi chưa có xa cách thực vẫn nảy sinh tương tư). Ngọn nguồn cùa nỗi tương tư là khát khao được gần kề, được chung tình. Vì thế, tâm lí tương tư thường có hai mặt trái ngược mà biện chứng với nhau: Một mặt, khoảng cách thực được nhân lên gấp bội lần, nó trở nên diệu vợi, xa ngái hơn trong sự thực; mặt khác, nhớ thương chính là một nỗ lực để vượt lên khoảng cách; nó giăng qua thời gian và không gian như một nhịp cầu mãnh liệt vượt qua mọi xa cách. Càng mãnh liệt càng xa ngái, càng xa ngái lại càng mãnh liệt hơn. Đồng thời, tâm lí tương tư cũng phức tạp, nó không chỉ có nhớ nhung, thương cảm, mà còn đầy những ước ao và luôn có cả hờn giận, trách móc. Vì vậy, khi giãi bày nỗi tương tư, không chỉ có những lời bộc bạch xuôi chiều, mà còn có những lời dỗi hờn bóng gió, thậm chí cả những lối nói mát mẻ, vòng vo, lấp lửng nữa. Nhưng do xuất phát từ nỗi nhớ thương và khao khát dành cho nhau nên tất cả những lời ấy đều dễ thương, dễ nghe cả. Thực chất, chúng chỉ lá những biến thể khác nhau của những lời tình tự thôi. Như vậy, tương tư chính là dạng thức sống nhất của tình yêu. Ai đã yêu mà chẳng tương tư. Một tâm hồn đang nhớ là một trái tim đang yêu, một tâm hồn ngừng nhớ là bằng chứng xác thực của một trái tim đã ngừng yêu, một tấm tình đã lặng tắt. Vì những lẽ đó, thơ viết về tương tư rất nhiều và dễ tìm được niềm đồng cảm của con người nói chung, của những lòng trẻ nói riêng.
Nỗi tương tư ở bài thơ này đã diễn biến qua các sắc thái cảm xúc chính
Nhớ nhung:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
Gió mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng.
Băn khoăn, hờn dỗi:
Hai thôn chung lại một làng,
Cớ sao bèn ẩy chẳng sang bên này?
Than thở:
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Hờn trách mát mẻ:
Bảo rằng cách trở đò giang,
Không sang là chẳng đường sang đã đành.
Nhưng đây cácli một đầu đình,
Có xa xôi mấy mà tình xa xôi...?
Tương tư thức mấy đêm rồi,
Biết cho ai, hỏi ai người biết cho?
Nôn nao mơ tưởng:
Bao giờ bến mới gặp đò?
Hoa khuê các bướm giang hồ gặp nhau?
Ước vọng xa xôi:
Nhà em có một giàn giầu,
Nhà anh có một hàng cau liên phòng.
Thôn Đoài thì nhá thôn Đông,
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Tất cả diễn biến theo lôi xen lồng và chuyển hoá sang nhau rất tự nhiên, chân thực.
Lời hờn trách của chàng trai - vô lí mà có lí
Chàng trai trách cô gái sao không sang với mình, dù đây đó chỉ “cách một đầu đìnlí".
Bề ngoài, điều này là vô lí. Trong tình yêu, người chủ động đi đến phải là người con trai, đằng này anh lại trong vai thụ động ngồi đợi chờ. Đã thụ động đợi chờ lại còn. trách móc.
Nhưng bề sâu, thì lại không vô lí.
Thứ nhất, đây là một bài thơ, tác giả tạo ra một tình huống trữ tình để bày tỏ nỗi niềm, chứ không câu nệ vào thực tế. Nhà thơ phải đặt chàng trai vào vai thụ động chờ đợi mới có thể bộc bạch được tâm trạng tương tư của một người trai quê như thế.
Thứ hai, lôi trách này không phải vì ghét, không giống như sự quy kết trách nhiệm, đổ lỗi thông thường, mà trách vì... yêu. Do quá mong nhớ, bị nỗi nhớ mong giày vò, người trong cuộc dễ tưởng mình bị hờ hững, nên sinh ra hờn ngược trách xuôi thôi, không có hàm ý ghét bỏ. Nói khác đi, trách chỉ là một cách bộc bạch tình yêu. Người đời cũng gọi thế là “trách yêu”.
Nghệ thuật diễn tả thời gian và tăm trạng trong hai câu
Ngày qua ngày lại qua ngày,
Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng.
Tâm trạng đợi chờ sốt ruột và mòn mỏi không tách rời với việc diễn tả thời gian. Nổi bật lên là cách ngắt nhịp, phép lặp, giọng kể lể và việc tả cảnh ngụ tình, dùng sự biến đổi của không gian để biểu hiện thời gian.
+ Câu lục: Ngày qua ngày lại qua ngày
Nhịp 2/2/2 thông thường của câu lục (trong lục bát truyền thông) đã được ngắt thành nhịp 3/3: “Ngày qua ngày / lại qua ngấy". Ý và lời vế sau
lặp lại vế trước. Cách ngắt này khiến cho chữ “lại” ồ đầu nhịp sau trở thành điểm nhấn của ngữ điệu. Nó gợi được dòng thời gian cứ trôi qua hết sức chậm chạp, ngày mới chỉ còn là sự lặp lại ngày cũ một cách chán ngán và vô vọng. Cả việc ngắt nhịp, lặp vế câu và nốt nhấn ở chữ lại khiến cho giọng thơ vang lên như một lời than thở, kể lể ngán ngẩm. Tất cả những điều đó đã làm hiện lên hình ảnh một người con trai với tâm trạng nóng lòng chờ trông đến mòn mỏi.
+ Câu bát: Lá xanh nhuộm, đã thành cây lá vàng.
Câu thơ diễn tả thời gian và tâm trạng thật tinh tế và ý nhị. Thời gian diễn ra ở câu trên đã chậm chạp, sốt ruột, nhưng mới qua lời kể thôi. Đến câu này, thời gian mới hiện lên sinh động. Thời gian có màu, đúng hơn thời gian hiện lên qua việc chuyển màu: Lá xanh chuyển thành lá vàng. Ngày anh bắt đầu đợi chờ, cây hãy còn xanh, đến nay lá đã ngả sang vàng cả rồi, thế mà vô vọng vẫn hoàn vô vọng. Thời gian và tâm trạng cứ thành “cừu thù” của nhau: Thời gian càng chậm, tâm trạng càng nặng nề; tâm trạng càng mỏi mòn, nôn nóng, thời gian càng chậm chạp, lê thê. Nhưng, điều tinh tế nhất ở chữ “nhuộm”. Thứ nhất, chữ “nhuộm” diễn tả được thời gian chậm chạp. Có thể so sánh với chữ “nhuốm” trong câu thơ sau của Nguyễn Du để làm nổi bật điểm này: “Người lên ngựa kể chia bào - Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san”. “Nhuốm” nói sự biến đổi màu sắc mới diễn ra, đang diễn ra, còn chưa hoàn tất. sắc màu sự vật biến đổi chủ yếu ở bề mặt, bề ngoài. Còn “nhuộm” có lẽ đã hoàn tất. Thời gian dài tới mức đủ để cho màu này đã chuyển hẳn sang màu khác, hoàn toàn định hình rồi. Thứ hai, chữ “nhuộm” để ngỏ chủ thể. Ai nhuộm? Chủ thể này hàm ẩn. Không hẳn thời gian, cũng không hẳn là sự biến chuyển nội tại của cây lá. Mà chính là nỗi tương tư. Tương tư đã khiến lòng người héo hon, đã nhuộm cây kia héo úa. Kẻ tương tư và cái cây ấy có môì tương giao thật kì lạ. Cây vừa là nhân chứng của mối tương tư, vừa là đồng minh của kẻ tương tư, là nạn nhân của bệnh tương tư, mà tựu trung, là hiện thân của mốì tương tư đó. Có thể xem cái cây kia cũng là cây tương tư được chứ sao ! Lối thể hiện như thế thật tinh tế, ý nhị.
Duyên quê và cảnh quê
Mốì duyên quê của lứa đôi đã hòa quyện trong cảnh quê của thôn làng. Nỗi tương tư của chàng trai, và qua đó là mối duyên của đôi trai gái này, càng đậm nét chân quê hơn vì nó gắn liền với khung cảnh và cây cỏ chốn quê. Những chi tiết về địa danh, cảnh vật, cây cỏ,... đều thuộc về chốn quê bao đời: thôn, làng, Đoài - Đông, đò giang, đầu đình, bến đò, hoa bướm, giàn giầu, hàng cau... Chúng vừa tạo ra không gian quê kiểng cho nhân vật trữ tình bày tỏ mối tương tư, vừa là phương tiện, thậm chí, là ngôn ngữ nữa để nhân vật trữ tình diễn tả tâm trạng tương tư của mình một cách tự nhiên, kín đáo, ý nhị. Có như thế, tình và cảnh mới có thể hòa quyện vào nhau được.
Bài thơ đậm chất dân gian
Bài thơ đậm chất dân gian, từ hình ảnh, tâm trạng đến cách diễn tả (lối liên tưởng, lối bố cục, cách dùng địa danh và ngôn ngữ,...). Ngay trong hai câu thơ đầu đã thấy rõ điều đó:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông,
Một người chín nhớ mười mong một người.
Trước hết là cách tạo hình độc đáo-. Hình ảnh chàng trai thôn Đoài ngồi nhớ cô gái thôn Đông đã khiến cho thi sĩ mở rộng ra, khái quát lên thành thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông. Đây không chỉ đơn thuần là cách nói vòng, mà quan trọng hơn, nó tạo ra hai nỗi nhớ song hành và chuyển hóa, gắn với hai chủ thể, hai đối tượng: Người nhớ người và thôn nhớ thôn. Chính vì có người nhớ người mà có thôn nhớ thôn. Nó tạo cơ sở cho thủ pháp nhân hóa: “Thôn Đoài ngồi nhớ..”. Nhưng sâu xa hơn, nó còn biểu đạt được cả một quy luật tâm lí: Khi tương tư thì cả không gian sinh tồn bao quanh chủ thể cũng nhuốm nỗi tương tư ấy (nhìn theo con mắt người trong cuộc), vì thế mà có hai miền không gian nhớ nhau. Tràn đầy cả bầu không gian tạo ra bởi hai thôn ấy là một nỗi nhung nhớ.
Nghệ thuật dùng chất liệu ngôn từ thôn què, dân gian-. Địa danh thôn Đoài, thôn Bông; dùng thành ngữ chín nhớ mười mong, dùng số từ một, chín, mười, một-, cách tổ chức lời thơ độc đáo đẩy đối tượng về hai đầu câu thơ tạo khoảng cách xa: Thôn Đoài... thôn Đông, Một người... một người. Nhất là ở câu sau, hai đối tượng ở hai đầu xa cách, giữa họ là nhịp cầu “chín nhớ mười mong". Lốỉ sử dụng ngôn ngữ này gợi được phong vị chân quê và thể hiện được giọng điệu kể rất phù hợp với việc bộc bạch nỗi tương tư.
“Tương tứ’ là một bài thơ rất “chân quê” của Nguyễn Bính. Với thể thơ lục bát mang phong cách ca dao, đậm chất dân gian, bài thơ diễn tả rất giản dị mà sâu sắc tâm trạng tương tư của một chàng trai quê trên cái nền của khung cảnh làng quê Việt Nam.