Soạn bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

  • Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trang 1
  • Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trang 2
  • Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trang 3
  • Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trang 4
  • Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trang 5
  • Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trang 6
  • Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trang 7
  • Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trang 8
  • Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trang 9
  • Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trang 10
  • Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trang 11
  • Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trang 12
  • Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trang 13
  • Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trang 14
  • Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trang 15
  • Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trang 16
  • Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trang 17
  • Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc trang 18
VĂN TẾ NGHĨA Sĩ CAN GIUỘC
Nguyễn Đình Chiểu
KIẾN THỨC Cơ BẢN
A. Giới thiệu
1. “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” (còn gọi là Tế cần Giuộc sĩ dân trận vong văn) là bài văn Nguyễn Đình Chiểu viết theo yêu cầu của Tuần phủ Gia Định Đỗ Quang để tế những nghĩa sĩ hi sinh trong trận tập kích đồn quân Pháp ở Cần Giuộc đêm 14 - 12 - 1861.
Về thời đại ra đời bài văn tế
Bài Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc ra đời vào khoảng cuối năm 1861, đầu năm 1862, trước khi triều đình kí hòa ước nhượng ba tỉnh miền Đông Nam Kì cho Pháp. Vào thời điểm này,thành Gia Định đã thất thủ (ngày 17 - 2 - 1859), Nguyễn Đình Chiểu lánh về cần Giuộc. Rồi cần Giuộc cũng mất. Thực dân Pháp đánh lấn dần sang ba tỉnh miền Đông. Trước thế giặc mạnh và những thất bại ban đầu của quân ta, hàng ngũ quan lại triều đình đã bắt đầu phân hóa, phe chủ hòa đang dần mạnh thế. Nhưng nói chung, triều đình vẫn còn đang đánh Pháp, nhiều tướng lĩnh đã được cử vào Nam để tăng cường binh lực, một sô' quan lại khắp nơi cũng tình nguyện tòng quân vào Nam chiến đấu như Nguyễn Thông, Nguyễn Thành Ý,... Phong trào kháng chiến chống Pháp của nhân dân Nam Kì đang thời kì sôi nổi. Nghĩa quân của Trần Thiện Chánh, Lê Huy chặn đánh giặc ở Gia Định, Trương Định nổi dậy ở Gò Công, Đỗ Trình Thoại ở Tân Hòa, Phan Văn Đạt, Nguyễn Trung Trực ở Tân An,... Tinh thần xả thân vì nghĩa lớn, ý chí thà chết chứ không đầu hàng giặc đang được phát huy cao độ. Cả nước hướng về cuộc kháng chiến ở Nam Kì, ca ngợi và cảm phục những tấm gương hi sinh cao cả vì nền độc lập của Tổ quốc. Ngay vua Tự Đức, mặc dù còn do dự giữa chủ trương hòa và chiến, vẫn ra lệnh cho Hoàng giáp Lê Khắc cẩn và Bảng nhãn Phạm Thanh viết hai bài văn tế các tướng sĩ bỏ mình sau các trận đánh nhau với Pháp. Bài Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu ra đời lúc này, khích lệ tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc và ý chí chiến đấu bảo vệ Tổ Quốc, quả đã đáp ứng một cách xuất sắc yêu cầu của lịch sử và lòng mong mỏi của nhân dân.
Về thể loại
Vãn tế là một loại văn gắn với phong tục tang lễ, nhằm bày tỏ lòng tiếc thương của tác giả và của người thân đôì với người đã mất.
- Văn tế thường có hai nội dung cơ bản:
+ Tái hiện cuộc đời, công đức, phẩm hạnh của người đã khuất;
+ Bày tỏ nỗi đau thương của người sống trong giờ phút vĩnh biệt.
về hình thức diễn đạt, văn tế thường được viết theo nhiều kiểu: văn xuôi, thơ lục bát, song thất lục bát, phú,...
Giọng điệu vãn tế nói chung là lâm li, thông thiết, sử dụng nhiều thán từ và những từ ngữ, hình ảnh có giá trị biểu đạt cảm xúc mạnh mẽ.
Bô' cục bài văn tế thường có bốn đoạn:
+ Đoạn mở đầu (Lung khởi) luận chung về lẽ sông chết, thường mở đầu bằng những từ “Thương ôi !”, “Hỡi ôi !”...
+ Đoạn thứ hai (Thích thực) kể công đức, phẩm hạnh, cuộc đời của người đã khuất, thường bắt đầu bằng cụm từ “Nhớ linh xưa”.
+ Đoạn thứ ba (Ai vãn) nói lên niềm thương tiếc đô'i với người đã chết.
+ Đoạn thứ tư (Kết) bày tỏ lòng tiếc thương và lời cầu nguyện của người
đứng tế.
2. Bài “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” viết theo thể phú Đường luật, gồm bốn đoạn:
Đoạn 1 - Lung khởi (câu 1, 2): Khái quát bối cảnh bão táp của thời đại và khẳng định ý nghĩa cái chết bất tử của người nghĩa sĩ nông dân.
Đoạn 2 - Thích thực (từ câu 3 đến câu 15): Tái hiện hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân, từ cuộc đời lao động vất vả, tủi cực đến giây phút vươn mình trở thành nghĩa sĩ đánh giặc và lập chiến công.
Đoạn 3 - Ai vãn (từ câu 16 đến câu 27): Bày tỏ lòng tiếc thương, sự cảm phục của tác giả và của nhân dân đối với người liệt sĩ.
Đoạn 4 - Kết (hai câu cuối): Ca ngợi linh hồn bất diệt của các nghĩa sĩ.
B. Đọc - Hiểu văn bản
Lung khởi (câu 1, 2)
Câu văn mở đầu khái quát khung cảnh bão táp của thời đại: “Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ”. Câu văn ngắn gọn, chia thành hai vế đối xứng, phản ánh sâu sắc biến cố chính trị lớn lao chi phỗì toàn bộ thời cuộc là sự đụng độ giữa thế lực xâm lăng tàn bạo thực dân Pháp (súng giặc đất rền) và ý chí kiên cường bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta (lòng dân trời tỏ). Đôi đầu với “súng giặc”, nhân dân chỉ có tấm lòng yêu nước. Chính điều đó làm nên tính chất bi tráng của cuộc chiến đấu, đầy bi kịch nhưng cũng vô cùng vĩ đại.
Trong bối cảnh đó, người nông dân đã biết chọn một lối sông đạo nghĩa: “Mấy năm công vã ruộng, ở đất vua sống chẳng quển cm; một trận nghĩa đánh Tây, đền nợ nước thác coi như ngủ”. Chết vì “ơn vua”, “nợ nước”, đó là cái chết vì nghĩa lớn. Câu văn mang màu sắc của tư tưởng trung quân, nhưng thực chất là tư tưởng yêu nước. Cái “nghĩa” ở đây là cái nghĩa lớn đối với đất nước. Vì vậy mà cái chết trở thành bất tử (thác coi như ngủ).
Về mặt nghệ thuật, những từ chỉ các yếu tố không gian to lớn như đất, trời và những động từ gợi sự khuếch tán âm thanh và ánh sáng như rền, to có tác dụng khái quát khung cảnh bão táp của thời đại và ý nghĩa bất tử của cái chết vì nghĩa lớn. Tất cả như một bệ đỡ hoành tráng cho bức tượng đài sẽ được miêu tả ở đoạn sau để tạo thành một chỉnh thể có tầm vóc đáng chiêm ngưỡng, làm cho bài văn tế đậm chất sử thi.
Thích thực (câu 3 đến câu 15) - Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ
Hình ảnh người nông dân trong cuộc sống bình thường
Tái hiện hình ảnh người nông dân trước “trận nghĩa đánh Tây", tác giả bộc lộ cái nhìn chân thực và chan chứa niềm cảm thông đối với cuộc đời lam lũ, tủi cực của người nông dân “cổi cút làm ăn, toan lo nghèo khó". Từ “côi cút" thật gợi hình và gợi cảm, làm hiện lên hình ảnh bé nhỏ, đáng thương của người nông dân âm thầm sống và “làm ăn" giữa cuộc đời đầy “toan lo”, “nghèo khó".
Người nông dân tự ngàn đời vẫn là những con người chất phác, quê mùa. Cuộc sống của họ chỉ là những gì diễn ra bên trong lũy tre làng (ở theo làng bộ). Những gì họ biết chỉ là công việc đồng áng: “Chỉ biết ruộng trâu”, “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm".
Trong rất nhiều điều người nông dân chưa biết, tác giả chỉ nhấn mạnh mỗi một điều - việc binh đao trận mạc: “Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung”, “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ; mắt chưa từng ngó". Dụng ý nghệ thuật của tác giả khi nhấn mạnh vào đặc điểm này là nhằm tạo sự đối lập để tôn cao tầm vóc người anh hùng ở đoạn sau.
Sự chuyển biến của người nông dân khi quân giặc xâm phạm đất đai, bờ cõi của cha ông
Tác giả miêu tả lần lượt những bước chuyển biến về tình cảm - lòng căm thù giặc (câu 6, 7), về nhận thức - ý thức trách nhiệm đối với sự nghiệp cứu nước (câu 8) và cuối cùng là hành động - tự nguyện sung vào đội quân chiến dấu (câu 9). Những bước chuyển biến được miêu tả chân thực, sinh động, hợp lí, gần gũi với cách suy nghĩ và lời àn tiếng nói của người nông dân.
Khi giặc đến, ban đầu người nông dân cũng hồi hộp, lo sợ: “Tiếng phong hạc phập phồng hom mươi tháng”. (“Mươi tháng” là tính từ đầu năm 1861, thực dân Pháp đánh lấn ra các tỉnh xung quanh Gia Định đến khi diễn ra trận đánh đồn cần Giuộc tháng 12 - 1861).
Họ chỉ biết trông đợi vào triều đình: “Trông tin quan như trời hạn trông mưa”. Họ chưa biết kẻ thù là ai, chỉ mơ hồ nhận ra đó là một lũ người xấu xa và họ ghét: “Mùi tinh chiên vấy vá dã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ” (“ba năm” là tính từ khi giặc Pháp đánh vào Gia Định năm 1859 đến khi diễn ra trận đánh đồn cần Giuộc tháng 12 - 1861).
Ngày một ngày hai, nhìn thấy kẻ thù nghênh ngang trên quê hương mình (“bữa thấy bòng bong che trắng lốp”, “ngày xem ống khói chạy đen sì”), họ cảm thấy nhức nhối. Cái “ghét" lúc trước đến đây đã trở thành lòng căm thù, muôn giết chết lũ giặc (“muốn tới ăn gan”, “muốn ra cắn cổ”).
Người nông dân nhận thức sâu sắc về chủ quyền của quốc gia và chính nghĩa của dân tộc, nhận thức được bản chất của kẻ thù xâm lược và ý thức được trách nhiệm của mình đôi với sự nghiệp cứu nước: “Một mối xa thơ đồ sộ, nào để ai chém rắn đuổi hươu; hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê hán chó”.
Tình cảm mãnh liệt, nhận thức sâu sắc, tất cả biến thành hành động: Người nông dân tự nguyện đứng lên, vì nghĩa đánh giặc: “Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xỉn ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay hộ hổ”.
Hình ảnh người nông dân đã chuyển biến từ bóng tối ra ánh sáng; từ bé nhỏ đến lớn lao, từ bình thường đến phi thường. Họ hiện ra trong vóc dáng của những người nghĩa sĩ.
Vẻ đẹp hào hùng của những người nghĩa sĩ áo vải trong “trận nghĩa đánh Tây”
Người nghĩa sĩ bước vào trận đánh trong hình ảnh người nông dân đi đánh giặc.
Vì tự nguyện cho nên những người “dân ấp dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ” ấy không cần được rèn tập “mười tám han võ nghệ, chẳng đợi tập rèn; mấy mươi trận binh thơ, không chờ bày bố”, cũng không cần được trang bị “nào đợi mang bao tấu bầu ngòi”-, “nào đợi sắm dao tu nón gõ”; “hỏa mai”, “gươm đeo” đều không có.
Họ bước vào trận đánh mà như mang theo cả hơi thở của ruộng đồng với những vật dụng bình thường, thô sơ nhất: “Trên cật một manh áo vải”, “trong tay một ngọn tầm vông”, “rơm con cúi”, “lưỡi dao phay”. Nhưng tấm lòng “mến nghĩa” đã biến những vật dụng thô sơ ấy trở thành vũ khí lợi hại, lập nên những chiến công lớn lao “đốt xong chỗ dạy đạo kia”, “chém đặng thằng quan hai nọ", chiếm được đồn cần Giuộc, làm cho kẻ thù phải khiếp sợ.
Tính chất của đội quân áo vải được khắc họa hoàn toàn bằng bút pháp hiện thực, không theo tính ước lệ của văn thơ trung đại, không bị chi phối bởi kiểu sáng tác lí tưởng hoá. Đáng chú ý là những chi tiết chân thực đều được chọn lọc tinh tế, nên đậm đặc chất sông, mang tính khái quát, đặc trưng cao, vừa phản ánh chân thực khí thế của những đội quần tình nguyện đương thời, vừa nói lên bản chất tính cách của những người nông dân Nam Kì, vốn rất yêu chuông chính nghĩa và khảng khái. Do vậy, bức tượng đài ánh lên một vẻ đẹp mộc mạc, chân chất và hết sức độc đáo.
Hình tượng những người anh hùng được khắc nổi trên cái nền một trận công đồn rất náo nhiệt, đầy khí thế tiến công. Ngòi bút của tác giả đã hào hứng miêu tả trận đánh với nhiều biện pháp nghệ thuật:
+ Tạo thế đối lập giữa ta và địch, giữa vũ khí thô sơ và chiến thắng lớn: “Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong chỗ dạy đạo kia; gươm
đeo dùng một lưỡi dao phay, củng chêm đặng đầu quan hai nọ”. Điệp từ “cũng” nằm giữa hai ý đối lập càng có tác dụng nhấn mạnh.
+ Cách dùng từ ngữ đặc biệt, rất nhiều động từ chỉ hành động mạnh (đánh, đốt, chém, đạp, xô, hè, ó...), dứt khoát (đốt xong, chém đặng, trối kệ...), dùng từ đan chéo để tàng cường độ (đâm ngang, chém dọc, lướt tới, xông vào, hè trước, ó sau).
+ Câu văn trải dài, ngắt thành nhiều vế, nhịp câu ngắn gọn,...
Tất cả tạo nên một không khí khẩn trương, sôi động, quyết liệt và đầy hào hứng. Trên cái nền trận đánh đó là hình ảnh những người chiến sĩ nông dân
“đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không”, “xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có”, “nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to”, “trối kệ tàu thiếc, tàu đồng pháo nồ”,... Khí thế của họ là khí thế đạp lên đầu thù xóc tới, không quản ngại bất kì sự gian khổ, hi sinh nào, rất tự tin và đầy ý chí quyết thắng. Hình tượng đó phần nào gần gũi hình tượng các dũng sĩ oai hùng ở những thiên anh hùng ca thuở xưa.
Việc miêu tả hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ thể hiện tầm cao tư tưởng và tình cảm của Nguyễn Đình Chiểu: ông đã phát hiện và ngợi ca bản chất cao quý vẫn tiềm ẩn đằng sau manh áo vải, sau cuộc đời lam lũ, vất vả của người nông dân, đó là lòng yêu nước, và ý chí quyết tâm bảo vệ Tổ quốc. Vẳn chương thời phong kiến từ xưa cho tới bấy giờ chưa có tác phẩm nào chú ý khai thác vẻ đẹp tâm hồn cao quý đó của người nông dân.
Về nghệ thuật đoạn vãn miêu tả trận công đồn:
Hiếm có đoạn văn nào trong văn học trung đại được xây dựng hầu như toàn bằng những chi tiết chân thực, được cô đúc từ thực tế đời sông nên có tầm khái quát cao, không sa vào vụn vặt, tản mạn như ở đây. Hình tượng nhân vật được đặt trong một kết cấu chặt chẽ, hợp lí. Ngòi bút hiện thực ấy lại kết hợp thật nhuần nhuyễn chất hiện thực với chất trữ tình sâu lắng, ẩn chứa trong từng câu chữ, từng hình ảnh là nỗi cảm thông, niềm kính phục và tự hào của tác giả. Từ ngữ bình dị mà rất tinh tế, chính xác, có sức gợi cảm, nhiều biện pháp tu từ được sử dụng thành công, tạo được hiệu quả cao.
Ai vãn (câu 16 đến câu 27)
Đây là đoạn văn bộc lộ trực tiếp tình cảm, cảm xúc của tác giả và của nhân dân đương thời đô'i với người liệt sĩ. Tính trữ tình là bao trùm nhưng xen kẽ vào đó vẫn có những yếu tô' hiện thực, có giá trị làm tăng độ sâu nặng của cảm xúc.
Nỗi xót thương đối với người liệt sĩ
Trong nỗi xót thương có pha lẫn nhiều nỗi niềm.
Nỗi xót thương ở đây có sự tiếc hận của người phải hi sinh khi sự nghiệp còn đang dang dở, chí nguyện chưa thành:
+ Ôi ! Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ (câu 16). + Thôi thôi ! Chùa Tôn Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm; dinh Lang sa nửa khắc đãng rửa hờn, tấc phận bạc
đành theo dòng nước đổ (câu 23).
Nỗi xót xa của những gia đình mất người thân, tổn thất không thể bù đắp đối với những người mẹ già, vợ trẻ-.
Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong nhà; não nùng thay vạ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xê' dật dờ trước ngõ (câu 24).
Nỗi căm hờn những kẻ đã gây nên những cảnh éo le:
Vì ai khiến quan quăn khó nhọc, ăn tuyết nằm sương; vỉ ai xui đồn lũy tan tành, xiêu mưa ngã gió (câu 20).
Hoà chung với tiếng khóc uất ức, nghẹn ngào trước tình cảnh đau thương của đất nước, của dân tộc:
Binh tướng nó hãy chật sông Bến Nghé, làm cho bốn phía mây đen; ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu một phương con đỏ (câu 26).
Nhiều niềm cảm thương ấy cộng lại thành nỗi đau sâu nặng, không chỉ ở trong lòng người mà dường như còn bao trùm cỏ cây, sông núi. Sông Cần Giuộc, chợ Trường Bình, chùa Tôn Thạnh, Bến Nghé, Đồng Nai,... tất cả đều nhuốm màu tang tóc bi thương.
Niềm cảm phục và tự hào
Tác giả bày tỏ niềm cảm phục và tự hào đối với những người dân thường đã dám đứng lên bảo vệ tùng tác đất, ngọn rau, bát cơm, manh áo của mình, chống lại kẻ thù hung hãn:
Chẳng phải án cướp án gian đày tới, mà vi binh đánh giặc cũng cam tâm; vốn không giữ thành giữ lũy bỏ đi, mà hiệu lực theo quân cho đáng số (câu 18).
Bởi nghĩ ràng “Tấc đất ngọn rau ơn chúa, vun trồng cho nước nhà ta; bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó (câu 19).
Đô'i lập với lẽ sông cao đẹp của người nghĩa sĩ là lối sông tầm thường, ô nhục của những kẻ bán nước theo giặc. Tác giả không tiếc lời chửi rủa bọn người này:
Sống làm chi theo quân tà đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, thấy càng thêm hổ (câu 21).
Tác giả cũng không tiếc lời ca ngợi những người nông dân cần Giuộc đã lấy cái chết để làm rạng ngời một chân lí cao đẹp của thời đại - thà chết vinh còn hơn sống nhục:
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ củng vinh; hơn còn mà chịu tiếng hàng Tây, ở với man di rất khổ (câu 22).
Nguyễn Đình Chiểu biểu dương công trạng của người liệt sĩ đời đời nhân dân ngưỡng mộ, Tổ quốc ghi công:
Ôi ! Một trận khói tan, ngàn thu tiết rỡ (câu 25).
Thác mà trả nước non rồi nợ, danh thơm đồn sáu tỉnh chúng đều khen; thác đã ưng đình miếu để thờ, tiếng hay trải muôn đời ai cũng mộ (câu 27).
Tiếng khóc không chỉ thể hiện tình cảm riêng tư mà tác giả thay mặt nhân dân cả nước khóc thương và biểu dương công trạng người liệt sĩ. Tiếng khóc không chỉ hướng về cái chết mà còn hướng về cuộc sông đau thương, khổ nhục của cả dân tộc trước làn sóng xâm lăng của thục dân. Nó không chỉ gợi nỗi đau, mà cao hơn nữa, còn khích lệ lòng căm thù giặc và ý chí tiếp tục nối sự nghiệp dang dở của những người nghĩa sĩ.
Kết (hai câu cuối): Ca ngợi linh hồn bất diệt của người nghĩa sĩ
Còn đánh giặc, mất cũng đánh giặc, vong hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp .nguyện đặng trả thù kia; sống thờ vua, thác củng thờ vua, lời dụ dạy đã đành rành, một chữ ấm đủ đành công đó.
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương nghĩa sĩ thắp thêm tham, cám bởi một câu vương thổ.
Gạt đi màu sắc của tư tưởng trung quân, câu văn ca ngợi sự bất tử của những người nghĩa sĩ. Họ vẫn như đang còn sống, đang có mặt trong cuộc chiến đấu của nhân dân chống xâm lược.
Tổng kết
Bài “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu là tiếng khóc cao cả, thiêng liêng cho một thời kì lịch sử khổ đau của dân tộc, là bức tượng đài bi tráng về những người nghĩa sĩ nông dân cần Giuộc đã dũng cảm chiến đấu, hi sinh vì Tổ quốc. Bài văn là một thành tựu xuất sắc về nghệ thuật xây dựng hình tượng nhân vật, kết hạp nhuần nhuyễn chất trữ tình và tính hiện thực, ngôn ngữ giản dị, trong sáng, giàu sức biểu cảm.
ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề: Hãy phân tích những nét đặc sắc của hình tượng nhân vật người nghĩa sĩ trong bài “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc”.
BÀI VIẾT GỢI ý
1. Xét ở góc độ hình tượng, ông Phạm Vân Đồng từng đặt bài văn tế của Nguyễn Đình Chiểu ngang hàng với Cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi và cho rằng một bên là bài ca về người anh hùng chiến thắng, một bên là bài ca về người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang. Xét ở góc độ thể loại, nhà phê bình văn học Hoài Thanh không ngần ngại hạ bút khen tác phẩm của nhà thơ mù Bến Tre là “một bài văn tế hay bậc nhất trong văn học Việt Nam”. Điều đó có nghĩa là chúng ta đang đứng trước một tác phẩm lớn, một tác phẩm có tầm vóc đặc biệt trong lịch sử văn học nước nhà.
Hình tượng người nghĩa sĩ nông dân có ba nét đáng chú ý
Thứ nhất, họ là nhân vật đám đông (trường hợp này hay bắt gặp trong những tác phẩm sử thi kiểu như Bình Ngô đại cáo), tất yếu tác giả phải sử dụng bút pháp hoành tráng để miêu tả họ cho tương xứng. Thứ hai, họ lại là đám đông dân chúng cầm vũ khí, vì “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”, nên cần có một quan điểm lịch sử mới mẻ để nhìn ra và tái tạo được chân dung của họ. Thứ ba, đây là loại hình tượng đời sông chứ không phải hình tượng ước lệ, cho nên cần một bút pháp hiện thực - trữ tình và quan trọng hơn là một quan điểm mĩ học mới mẻ để tiếp cận loại hình tượng nghệ thuật này.
Mở đầu bài vãn tế, Nguyễn Đình Chiểu đã cất lên tiếng than lay động lòng người:
Hỡi ôi ! Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ.
Âm vang tiếng súng gợi lên cơn tao loạn của đất nước một thời, làm nổi lên một vấn đề trung tâm của thời đại: Sự đôi lập giữa giặc và dân. Giặc gắn với súng - biểu tượng của tàn bạo. Súng ở đây được thể hiện với tất cả sự tàn bạo cao nhất: “Súng giặc đất rền”. Dân gắn với tấm lòng, tấm lòng này cũng bộc lộ ở mức cao nhất, sáng rực cả đất trời: “Lòng dân trời tỏ”. Lời than mở đầu đã nóng bỏng trong cái dữ dội của chiến tranh, đặt ngay hình tượng người nghĩa sĩ vào thử thách lớn của lịch sử. Vận nước là thước đo lòng người.
Sau lung khởi là phần thích thực. Thích thực là hồi tưởng cuộc đời người đã khuất, cho phép tác giả ngược dòng thời gian để truy tìm nguồn góc của hình tượng. Ớ đây có một bất ngờ. Trước đòi hỏi của vận nước thì "... trang dẹp loạn này đâu vắng?” (.Chạy Tây - Nguyễn Đình Chiểu). Ghé vai gánh vác sứ mệnh dân tộc lúc này lại là những con người quá đỗi hiền lành, “côi cút làm ăn, toan lo nghèo khó” - tức là người nông dân đích thực. Nhấn mạnh cái gốc nông dân của hình tượng người nghĩa sĩ là một nét mới, một bước tiến của cái nhìn Đồ Chiểu so với văn học trung đại, tạo cơ hội cho một loại hình tượng nghệ thuật mới, hình tượng người - nông - dân - đánh - giặc bước vào văn học. Những câu thơ sau này của Chính Hữu như: “Quê hương anh nước mặn đồng chua, Làng tôi nghèo đất cày lèn sỏi đả” (Đồng chí) phải chăng đã bắt đầu từ cái thượng nguồn Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc của hơn 80 năm về trước?
Khi thực dân Pháp xâm lược, người nông dân lam lũ, cần mẫn đến âm thầm tội nghiệp ấy, kì lạ thay, bỗng trở thành người lính can trường. Hoàn cảnh đã trở thành một “cái hích” vĩ đại cho quá trình chuyển biến đó. Hay nói đúng hơn, ý thức dân tộc, tình cảm yêu nước, lòng quả cảm nảy sinh trong một hoàn cảnh đặc biệt đã thôi thúc người nông dán trở thành những anh hùng. Điều lí thú là khi lí giải quá trình chuyển biến từ người nông dân thành người nghĩa sĩ, Nguyễn Đình Chiểu đã phát hiện ra chất nghĩa sĩ đậm đặc sắc thái nông dân, khiến hình tượng phải được gọi chính xác bằng một hợp từ: “nông dân - nghĩa sĩ’. Thì đây, hãy lắng nghe những mong mỏi, những yêu ghét của họ:
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa; mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Hai so so sánh ở câu trước đã hay: “ như trời hạn trông mưa", “như nhà nông ghét cỏ” - nhà Nho Nguyễn Đình Chiểu đã đủ can đảm bước ra khỏi tòa lâu đài của ngôn ngữ bác học để đến với túp lều cỏ của ngôn ngữ bình dàn, dùng lối nói của nông dân để phô hết lòng căm thù của nông dân một cách thật mãnh liệt, hồn nhiên. Nhưng đến câu sau, hệ thống ngôn từ mới đủ sức lột tả hết chất nông dân rất riêng vùng Nam Bộ. Đó là sự cảm nhận kẻ thù một cách rất cụ thể qua những màu sắc mạnh: “trắng lốp" đến nhức mắt, “đen sỉ” đến ghê tởm. Đó là thái độ “ăn gan”, “cắn cổ” mộc mạc, bộc trực nhưng rất mạnh mẽ, dứt khoát, giống như chàng Hớn Minh gặp việc trái mắt thì không phút ngần ngừ:
Tôi bèn nổi giận một khi,
Vật chàng xuống đó, bể đi một giò.
(Lục Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu)
Lối sông vì nghĩa của người nông dân Nam Bộ thật đơn giản mà sâu sắc, quyết liệt. Không có lòng yêu đến mức nào đó, Đồ Chiểu sao có thể “nhìn thấu” người dân quê mình đến thế.
Bộc trực không đồng nhất với bản năng. Chiều sâu của Nguyễn Đình Chiểu là nhìn người nghĩa sĩ nông dân như một thực thể có ý thức. Người nông dân ra trận không phải do một cơn phân khích ngẫu hứng mà là do một nhận thức đẹp đẽ, sâu xa về Tổ quốc:
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê, bán chó.
Ngôn ngữ ước lệ của thi pháp trung đại đã phát huy sức mạnh đáng kể trong những hình ảnh cực kì tráng lệ, thiêng liêng của đất nước “một mối xa thư đồ sộ”, “hai vầng nhật nguyệt chói lòa”. Kích cỡ hình ảnh cũng là kích cỡ tấm lòng ngưỡng vọng, tự hào sâu xa của người lính dành cho Tổ quốc mình. Lòng yêu nước chính là sự thôi thúc bên trong dẫn đến tinh thần tự nguyện xả thân vì nghĩa - nét đẹp đẽ cảm động nhất ở những người lính:
Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Trong vãn học Việt Nam xưa, ta từng được thưởng thức nhiều bức tranh chiến trận đầy hùng khí. Cái đặc sắc của Nguyễn Đình Chiểu là tác giả không hề tô vẽ, không phóng tay theo lực hút của các phép tu từ học, mà cứ để nguyên một đám đông dân chúng lam lũ, rách rưới, tay dao tay gậy ào ào xông vào đồn giặc:
Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu bầu ngòi; trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu nón gõ.
Hỏa mai đánh bàng rơm con cúi, củng đốt xong nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cùng chém rớt đầu quan hai nọ.
Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có.
Kể đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ni hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.
Một bức tranh chiến trận ngất trời tráng khí, những âm thanh vang động Chè trước”, “ó sau”, “súng nổ”...); những động tác quyết liệt {đốt, chém, đạp, lướt, đâm...); những tốc độ gấp gáp, bão táp {đạp rào / lướt tới; đâm ngang / chém ngược). Ta bỗng giật mình, một nhà thơ mù, nhưng sự nghe ngóng và đặc biệt là tấm lòng như thế nào đó đã khiến Nguyễn Đình Chiểu “nhìn” hiện thực chiến đấu của nhân dân sáng tỏ hơn cả người sáng mắt. Sức mạnh chủ yếu của tác giả là ở tấm lòng {“Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài" - Nguyễn Du). Cô Kiều Nguyệt Nga chỉ nhìn Lục Vân Tiên một phút mà đủ vẽ nên tấm hình người yêu giống như tạc. Trong nghệ thuật, độ sâu tình cảm có khả năng ghi nhận tài tình như vậy đó.
Trong văn học Việt Nam, trước Nguyễn Đình Chiểu chưa bao giờ người đọc được chiêm ngưỡng một bức tượng đài nghệ thuật về người nông dân hoành tráng đến thế. Bút pháp hoành tráng mà vẫn cực kì sông động, cứ như trước mắt ta loang loáng những đường gươm, ào ạt những bóng người, ầm vang những âm thanh chiến trận.
Nguyễn Đình Chiểu không chỉ là nhà chép sử thuần túy mà ông còn suy tư về lịch sử. Và qua tác phẩm của ông, lịch sử hiện lên, không phải từ đáy lọ mực của các sử gia mà từ chính máu và nước mắt của cuộc đời.
Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc là khúc ca bi tráng về những người anh hùng thất trận, là một tác phẩm lớn trong lịch sử văn học Việt Nam. Chính sự hòa quyện giữa tư tưởng yêu nước, tinh thần nhân dân và một quan điểm mĩ học mới mẻ đã tạo nên độ lớn này.
Theo Nguyễn Quang Trung
Tư LIỆU THAM KHẢO
NGUỒN GỐC CỦA NHỮNG CÁI ĐẸP
TRONG THƠ VẪN NGUYỄN ĐÌNH CHIÊU
Nguyễn Đình Chiểu có được sự ngưỡng mộ và tôn kính của bao nhiêu thế hệ, kể cả thế hệ ngày nay và thế hệ đã qua là do di sản thơ văn của ông để lại cho đời sau và những giá trị tinh thần tỏa ra từ những áng thơ văn đó.
Chính những giá trị cao đẹp ấy là kết quả của cả một cuộc đời lao động trí óc nghiêm túc, say mê, tràn đầy nghị lực và không biết mệt mỏi của Nguyễn Đình Chiểu. Không có một cuộc đời lao động như vậy, thì không thể nói gì đến những thành công trên địa hạt văn học và tư tưởng. Nhưng một trong những bí quyết tạo nên những thành công của Nguyễn Đình Chiểu, một nguồn gốc chủ yếu của những giá trị cao đẹp trong di sản thơ văn của ông, chính là lòng thương dân vô hạn và sự gắn bó suốt đời với nhân dân của Nguyễn Đình Chiểu, nhất là quan điểm và lập trường của nhân dân khi ông xem xét và giải quyết mọi vấn đề. Nhân dân đã đùm bọc, cưu mang giúp đỡ ông lúc hoạn nạn, đồng thời đã tạo ra những điều kiện và môi trường thích hợp cho tài năng và trí tuệ của ông nảy nở. Đối với ông, nhân dân lao động như một bà mẹ thần kì, chẳng những đem lại cho ông một cuộc sông mãnh liệt, hữu ích và đầy ý nghĩa, mà còn chắp cho ông đôi cánh đủ sức bay tới những đỉnh cao của tri thức và nghệ thuật. Đó là một sự thật hiển nhiên mà ta có thể dễ dàng nhận thấy qua mấy biểu hiện sau đây trong tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu:
Từ truyện thơ “Lục Văn Tiên”
Trong truyện “Lục Vân Tiên”, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên cả một xã hội trong đó những nhân vật chính diện tiêu biểu là Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga đã tượng trưng cho tài năng, trí tuệ, nhân phẩm của con người. Đó là những con người học rộng, tài cao. Tuy mỗi người mỗi vẻ, mỗi nét mặt khác nhau, nhưng họ đều là những người "cương trực", "khẳng khái", "vị tha" và “trọng nghĩa hiệp". Họ sẵn sàng cứu giúp người khác không sợ khó khăn, nguy hiểm và nêu cao cái nghĩa khí “giữa dường gặp sự bất bình chẳng tha". Họ kiên trì đứng về lẽ phải mà suy nghĩ và hành động. Những đặc tính cao đẹp đó cũng chính là những đức tính cơ bản của con người Việt Nam nói chung và của nhân dân Nam Bộ nói riêng. Những đặc tính đó đã hình thành và củng cô' trên trường kì lịch sử, nhất là trong quá trình dân tộc ta khai phá và mở mang mảnh đất miền Nam của Tổ quốc, cho nên nó đặc biệt thể hiện rõ nét ở nhân dân Nam Bộ. Những đặc tính đó không những đã được phản ánh trong văn học dân gian mà còn được khẳng định trong sử sách.
Ở những nhân vật chính diện của truyện “Lục Vân Tiên”, Nguyễn Đình Chiểu đã miêu tả phẩm chất đẹp đẽ của con người biểu hiện trong các mối quan hệ cha con, vợ chồng, bè bạn, thầy trò... Họ đã ăn ở, giao tiếp và đối xử với nhau thật là trọn tình, vẹn nghĩa, thủy chung. Tình nghĩa và lồng thủy chung đó chính là tình cảm đạo đức hồn nhiên, trong sáng và lành mạnh vốn nảy sinh từ trong cuộc sống giản dị của nhân dân lao động.
Hơn nữa, trong cuộc đời thực, quần chúng lao động còn có một cách nhìn lạc quan ở tương lai, một niềm tin vào sự thắng lợi của lẽ phải, của tài năng và nhân phẩm con người. Lẽ dĩ nhiên dưới chế độ phong kiến, quần chúng lao động không tránh khỏi những giới hạn của lịch sử, cho nên cái nhìn lạc quan và niềm tin của họ thường gần với quan niệm “ác giả ác báo, thiện giả thiện báo”. Do bị áp bức và bóc lột, họ rất mong muôn được giải phóng, mong muôn mọi người “ở hiền gặp lành” và chính nghĩa nhất định sẽ thắng, đồng thời những kẻ bạc ác cuối cùng phải đền tội.
Tiến trình phát triển của sự việc và của những tình tiết trong truyện “Lục Vân Tiên” đã diễn ra theo đúng như cái nhìn lạc quan và niềm tin như vậy của quần chúng. Hai nhân vật chính là Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga gặp bao nhiêu tai nạn và trắc trở trên đường đời, nhưng cuối cùng họ đã vượt qua tất cả để đi đến hạnh phúc.
Tóm lại, nhân dân lao động được phản ánh trong truyện “Lục Vân Tiên” với tất cả đặc tính và phẩm chất, sức mạnh và niềm tin của họ. Đó chính là một thành công tuyệt mĩ trong lịch sử văn học nước ta. Bởi vì trước Nguyễn Đình Chiểu, ở nước ta chưa có một nhà văn, nhà thơ nào, kể từ đại thi hào Nguyễn Du cho đến các tác giả của những truyện Nôm bình dân và truyện Nôm bác học, lại miêu tả được sâu sắc, đa dạng tính cách của quần chúng nhân dân như truyện thơ “Lục Vân Tiên”. Nếu trước Nguyễn Đình Chiểu, hình ảnh và tính cách của quần chúng lao động mới xuất hiện một cách lẻ loi thưa thớt, thì với tác phẩm “Lục Vân Tiên”, quần chúng lao động được miêu tả một cách tập trung trên nhiều khía cạnh. Những đặc tính và phẩm chất của họ không chỉ biểu hiện ở một hoặc hai nhân vật mà ở một loạt các nhân vật như Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga, Hớn Minh, Vương Tử Trực, ông Ngư, ông Tiều, ông Quán, Tiểu đồng... Điều đó chứng tỏ rằng, nhân dân lao động, kể cả những người trí thức gắn bó với họ đã từ cuộc đời thực bước vào truyện thơ của Nguyễn Đình Chiểu như một lực lượng xã hội đông đảo, hùng hậu: Chính lực lượng xã hội này đã báo trước tinh thần kháng chiến anh dũng của nhân dân miền Nam khi thực dân Pháp đặt chân tới. Nhìn thấy sức mạnh của lực lượng xã hội này, đó chính là một côhg hiến vô cùng quý giá của Nguyễn Đình Chiểu vào kho tàng vàn hóa của dân tộc.
Với một nội dung có tính nhân dân sâu sắc như vậy, với một hình thức giản dị phù hợp với nếp suy nghĩ của quần chúng và với một ngôn ngữ trong sáng được nâng cao từ tiếng nói thân thuộc hàng ngày của họ, truyện “Lục Vân Tiên” đã được đông đảo quần chúng say mê, ưa thích. Họ vô cùng sung sướng và xúc động khi tìm thấy ở trong truyện những hình ảnh, những tính cách giông vởi bản thân mình. Do đó mà các nhân vật trong truyện sống mãi trong tâm trí của đông đảo nhân dân qua bao nhiêu thế hệ. Giá trị tuyệt vời của truyện “Lục Vân Tiên" chính là ở chỗ đó.
Sở dĩ truyện “Lục Vân Tiên” có những giá trị tuyệt vời ấy và Nguyễn Đình Chiểu thành công khi viết tác phẩm này, là vì ông có một sự hiểu biết sâu rộng và nhiều mặt về đời sông của nhân dân, nhất là đời sông của người nông dân miền Đồng Nai, Gia Định, ông không những thấy rõ nét mặt, dáng điệu, cử chỉ, hành vi của họ mà còn hiểu được tâm tư, nguyện vọng thầm kín của họ, hơn nữa có một lối nhìn và giải quyết vấn đề bắt nguồn từ tâm lí và niềm tin của họ.
Nhưng không phải là ngẫu nhiên mà Nguyễn Đình Chiểu lại có được vốn hiểu biết về nhân dân cũng như có một trái tim và lập trường đồng diệu với nhân dân như thế. Chính cuộc sống của ông đã đưa lại cho ông tất cả những thứ quý giá ấy. Đó là một cuộc sống của nhân dân.
Cuộc sống của Nguyễn Đình Chiểu bắt đầu từ một gia đình nhà Nho nghèo mà cha mẹ của ông có nhiều liên hệ và gắn bó thân thiết với nhân dân. Qua sự giáo dục của người cha ngay thẳng và nhất là của người mẹ dịu hiền, ông đã trực tiếp nhận được dòng sữa tinh thần của nhân dân để mở mang dần trí óc của mình từ những ngày thơ bé. Khi tật đui mù và bao nhiêu tai họa liên tiếp đêh với ông, thì trong hoàn cảnh éo le và đau xót này, nhân dân lao động như một bà mẹ hiền nâng ông dậy và dang rộng cánh tay ra đón nhận người con bất hạnh của mình. Từ đây, cả cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu, từ việc ăn ở cho đến việc lấy vợ, sinh con, từ công việc làm thuốc, dạy học cho đến việc sáng tác thơ ca, đều được điều hành trong sự giúp đỡ, cưu mang, đùm bọc và trìu mến của nhân dân. Nghề dạy học và bốc thuốc giúp ông sinh sống nhưng cũng lại tăng thêm sự giao tiếp của ông với các tầng lớp người trong xã hội. Nhờ đó mà tri thức của ông được nhân lên gấp bội và ông có đầy đủ những vô'n liếng cần thiết để sáng tạo nên những hình tượng bất hủ trong truyện “Lục Vân Tiên”.
Nguồn gốc của sự nhận thức về cuộc kháng chiến cứu nước và vai trò của nhân dân trong cuộc kháng chiến đố
Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, Nguyễn Đình Chiểu bước vào cuộc kháng chiêh cứu nước, cũng với cách nhìn nhận sự việc lành mạnh và dứt khoát như ông đã thể hiện trong truyện thơ “Lục Vân Tiên”. Trong những giờ phút thử thách này của lịch sử, nhận thức và lập trường của ông đã đứng vững, phát triển và vươn tới đỉnh cao của thời đại.
Trước hết, sự nhìn nhận của ông về cuộc kháng chiến cứu nước thấm đượm một chủ nghĩa yêu nước thiết tha, sôi nổi. Đó là chủ nghĩa yêu nước được xây dựng trên nền tảng của lòng thương dân vô hạn, một lòng thương dân đã hình thành trong suốt cuộc đời gần gũi và gắn bó của ông với nhân dân. Đây không phải là lòng thương dân của những người trí thức quý tộc có thiện ý nghiêng mình xuống thông cảm với quần chúng nghèo khổ ở phía dưới, mà thực sự là lòng thương dân của một người trí thức cùng cảnh ngộ, cùng lập trường và quan điểm với nhân dân.
Càng thương dân, Nguyên Đình Chiểu càng yêu nước da diết, càng đau xót khi giặc Pháp dày xéo lên mảnh đất quê hương, tàn phá xóm làng và gây ra bao cảnh đau thương, tang tóc cho nhân dần:
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay.
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ bầy chim dáo dát bay.
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.
Ở Nguyễn Đình Chiểu lòng yêu nước, thương dân luôn luôn gắn liền với lòng căm thù giặc sâu sắc và thái độ kiên quyết đánh giặc. Là người trí thức thông cảm với mọi nỗi đau khổ của nhân dân trong chiến tranh, Nguyễn Đình Chiểu càng thấy rõ những tội ác "trời không dung, đất không tha" của bọn thực dân Pháp. Có thể nói, ngay từ khi chúng đặt bàn chân xâm lược lên miền Nam của đất nước ta, thì những hành động khủng bố dã man, cướp bóc trắng trợn, đầu độc thâm hiểm của chúng đã bị Nguyễn Đình Chiểu lên án một cách nghiêm khắc, quyết liệt. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, một kẻ thù mới mẻ của dân tộc ta bị tố cáo với những bằng chứng xác thực. Chỉ riêng điểm đó cũng đủ chứng tỏ nhận thức của Nguyễn Đình Chiểu vượt xa các sĩ phu đương thời, nhất là các sĩ phu đang nắm quyền trong triều Nguyễn. Đối với ông, không thể có một sự chung sống yên ổn hoặc một sự nghị hòa vô nguyên tắc nào giữa bọn giặc nước và nhân dân ta đang lâm vào cảnh nước mất nhà tan. Ông nhấn mạnh rằng:
Trời Đông mà gió Tây qua,
Hai hơi ấm mát chẳng hòa đau dân.
Đứng trước mối mâu thuẫn gay gắt ấy, thái độ của Nguyễn Đình Chiểu là kiên quyết đứng về phía nhân dân, đứng trên lập trường bảo vệ độc lập của TỔ quốc để chống lại bọn thực dân xâm lược. Theo ông, việc nhân dân cầm vũ khí chông giặc để bảo vệ quê hương, làng xóm là một điều tất nhiên, hợp với đạo lí. Bởi vì trước mắt người dần mất nước chỉ còn một con đường sống là nắm chắc "cây thương phá Lo' và "giáo tre ngàn dặm đánh Tây".
Là người biểu dương đường lối võ trang chiến đấu ấy, Nguyễn Đình Chiểu đã tán thành chủ trương nghịch mệnh triều đình và đi với nhân dân để chống giặc của Trương Định. Ông nhận thấy rằng, trong cuộc kháng chiến này, lòng dân, ý chí chiến đấu cho độc lập dân tộc của nhân dân là tiếng gọi thiêng liêng nhất đôi với người chiến sĩ ngoài mặt trận, kể cả những thủ lĩnh của họ. Đó là lập trường đúng đắn của Nguyễn Đình Chiểu về cuộc kháng chiến cứu nước. Lập trường ấy của ông không hề dao động, mặc dù trong chiến đấu có thể gặp nhiều tổn thất, thậm chí phải hi sinh cả tính mệnh.
Nguyễn Đình Chiểu tin tưởng một cách sâu sắc rằng, sự nghiệp kháng chiến cứu nước của dân tộc ta là một sự nghiệp “chí nhân đại nghĩa" hoàn toàn phù hợp với lẽ phải và lương tâm của con người, cho nên cuối cùng sẽ giành được thắng lợi. Vì thế ông khao khát trông đợi ngày giải phóng nhân dân khỏi nanh vuốt của quân thù như "hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió Đông". Và ngay trong những ngày đen tối nhất của lịch sử, khi mà quân thù đã chiếm cứ nhiều vùng đất đai của Tổ quốc, ông vẫn còn thiết tha hi vọng:
Ngày nào trời đất an ngôi cũ,
Mừng thấy non sông bặt gió Tây.
Niềm tin và hi vọng của Nguyễn Đình Chiểu ở đây tuy chưa phản ánh được quy luật khách quan của cuộc chiến tranh chông đế quốc nhằm bảo vệ độc lập dân tộc của nước ta hồi cuối thế kỉ XIX, nhưng rõ ràng đó là niềm tin chân thành và lành mạnh của quần chúng. Nó có tác dụng cổ vũ tinh thần chiến đấu của nhân dân ta lúc đương thời.
Nhưng điểm thành công nhất trong sự nhận thức của Nguyễn Đình Chiểu chính là ở chỗ ông đã nhìn thấy sức mạnh của nhân dân trong cuộc kháng chiến cứu nước, ông đã dành những áng thơ văn hùng hồn, sôi nổi và chói lọi nhất để nói về những chiến sĩ vốn là những người nghèo khể lam lũ xuất thân từ "dân ấp dân lân", ông diễn tả và ngợi ca một cách đầy nhiệt tình tinh thần anh dũng và tư thế lẫm liệt của họ trên chiến trường. Dưới con mắt của ông, những nông dân nghèo khổ ấy không phải chỉ là những người đáng yêu, những người ủng hộ và tham gia kháng chiến, mà còn là động lực chủ yếu của công cuộc cứu nước và là những chiến sĩ kiên cường nhất trong chiến đấu. Có thể nói, quan điểm nhân dân, nhất là quan điểm về vai trò của nhân dân trong chiến tranh cứu nước ở Nguyễn Đình Chiểu đã đạt tới một đỉnh cao. Bởi vì các thế hệ trước và đương thời nhiều lắm cũng mới chỉ nhận thấy nhân dân là lực lượng hậu thuẫn và là một thành phần tham gia vào cuộc chiến tranh đó.
Tóm lại, sự nhìn nhận của Nguyễn Đình Chiểu về cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc ta hồi cuối thế kỉ XIX tuy không tránh khỏi những hạn chế của lịch sử nhưng đó là một sự nhìn nhận tiến bộ. Nó đã thực sự góp phần thúc đẩy và nâng cao sự nhận thức của người đương thời về những vấn đề cấp bách của sự nghiệp cứu nước.
Sự nhìn nhận đó của Nguyễn Đình Chiểu cững là sự tiếp tục và phát triển thêm một bước những nhận thức của ông đã thể hiện trong tác phẩm “Lục Văn Tiên” về những quan hệ xã hội và nhân cách của con người, cũng như về sức mạnh và phẩm chất cao đẹp của nhân dân. Nhưng khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, với quan điểm, lập trường nhân dân và với lòng yêu nước thương dân vô hạn, ông đã nêu lên được những kiến giải tích cực về ý nghĩa và mục tiêu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nhất là ông cũng thấy rõ vai trò quan trọng và khí phách anh hùng của nhân dân trong cơn thử thách ác liệt của chiến tranh.
Chính trong cơn thử thách này của lịch sử, quan điểm và lập trường nhân dân của Nguyễn Đình Chiểu càng được củng cố. Ông càng gắn bó với nhân dân, càng chung vai sát cánh với nhân dân trong cuộc chiến đấu chông Pháp. Ông đã cùng nhân dân chạy giặc, cùng nhân dân kháng chiến. Ông không những chông giặc bằng ngòi bút mà còn liên lạc với Đốc binh Là, với Trương Định và tham gia vào những hoạt động chiến đấu của nhân dân. Nỗi thông khổ của nhân dân trong cơn binh lửa, cũng như bước tiến quân và tiếng kèn xung trận của nghĩa quân luôn luôn vang động trong trái tim và khối óc của Nguyễn Đình Chiểu. Cuộc chiến đấu oanh liệt của nhân dân đã đem vào trong tư tưởng của ông cái khí thế mạnh mẽ, cái sức sông quật cường của một dân tộc trong lúc hiểm nghèo. Như vậy là do gắn mình với cuộc chiến đấu của nhân dân và kiên định lập trường nhân dân mà Nguyễn Đình Chiểu đã tự xác định cho mình một thái độ đúng đắn, một tình cảm trong sáng, một nhận thức tương đối chính xác về cuộc đấu tranh chống xâm lược ở nước ta lúc đương thời.
Quan điểm và lập trường vận dụng các khái niệm của Nho giáo
Nguyễn Đình Chiểu xuất thân từ một gia đình nhà Nho và được đào tạo trong môi trường Nho học. ông lại sống dưới chế độ phong kiến triều Nguyễn, một triều đại tôn sùng Nho giáo đến tột mức. Trong tình hình ấy, Nguyễn Đình Chiểu không thể tránh khỏi sự ràng buộc của hệ tư tưởng Nho giáo, càng không thể không vận dụng các khái niệm của Nho giáo để diễn đạ4- tư tưởng của mình. Nhưng điều đáng lưu ý là ông đã đưa một nội dung đầy tính nhân dân và dân tộc vào trong các khái niệm của Nho giáo. Vì thế mà ở ông những khái niệm đó mất dần những yếu tô' tiêu cực và hấp thụ được thêm nhiều yếu tố tích cực có ích cho nhân dân trong cuộc sông lao động và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Đối với Nguyễn Đình Chiểu, khái niệm “nhân nghĩa” biểu thị một lòng thương người mênh mông, sâu thẳm như đại dương. Mà lòng thương người của Nguyễn Đình Chiểu trước hết là thương dân, nhất là dân nghèo khổ, là thương những người dân lương thiện bất hạnh và bị chà đạp. Đến những người án mày là những người cùng cực nhất của xã hội không ở ngoài lòng nhân ái của ông:
Đứa ăn mày cũng trời sinh,
Bệnh còn cứu đặng thuốc dành cho hhông.
Nguyễn Đình Chiểu còn đặc biệt dành một tình thương sâu sắc cho những người có tài đức, có khí tiết trong sạch nhưng lại không được triều đình trọng dụng, hoặc bị oan uổng hay gặp tai nạn. Đó là trường hợp của các nhân vật lịch sử như Nguyên Lượng, Nhan Uyên, Hàn Dũ... hoặc những nhân vật mà ông sáng tạo ra trong' truyện thơ của mình như Vân Tiên, Nguyệt Nga, Kì Nhân Sư... Còn khái niệm "nghĩa" của Nho giáo khi được Nguyễn Đình Chiểu vận dụng lại càng có những thay đổi lớn về mặt nội dung, càng thể hiện những giá trị đạo đức đầy sức sống trong quan hệ phong phú giữa nhân dần lao động. Các nhân vật chính diện của Nguyễn Đình Chiểu từ Nguyệt Nga, Vân Tiên đến Hớn Minh, Tiểu đồng... đều là những con người hành động vì nghĩa một cách tự giác và đầy nhiệt tình.
Nhìn một cách tổng quát, khái niệm “nhân nghĩa” do Nguyễn Đình Chiểu vận dụng vì gắn liền với những yêu cầu của nhân dân và của thời đại, cho nên nó đặc biệt được ông nhấn mạnh trên hai ý nghĩa cơ bản: Một là “nhân nghĩa” phải biểu hiện thành việc làm điều thiện nhằm cứu giúp người khác ra khỏi khó khăn, hoặc bảo vệ hạnh phúc của người khác trong cơn nguy biến; hai là “nhân nghĩa” phải góp phần duy trì sự hòa thuận, êm đẹp trong gia đình và bảo vệ cuộc sông yên vui trong độc lập và tự do của đất nước, trước hết là bảo vệ Tổ quốc khi có giặc ngoại xâm. Cho nên:
Mến nghĩa bao đành làm phản nước',
Có nhân nào nỡ phụ tỉnh nhà.
Ngoài khái niệm “nhân nghĩa”, Nguyễn Đình Chiểu còn đề cập đến nhiều khái niệm khác của Nho giáo như “trung hiếu”, “tiết hạnh”. Ông quan niệm rằng, đạo trung quân là cần thiết cho mọi người. Nhưng ông đòi hỏi một ông vua được mọi người tôn thờ phải là ông vua hiền tài, thương dân, yêu nước. Ông vua ấy phải tượng trưng cho hạnh phúc của nhân dân và nền độc lập tự chủ của đất nước.
ở Nguyễn Đình Chiểu, khái niệm “trung” thường gắn với khái niệm “hiếu”. Nhưng qua sự vận dụng của ông, khái niệm “hiếu” của Nho giáo cũng không cứng nhắc và trở nên gần gũi với nhân dân hơn. “Hiếu” ở ông là lòng biết ơn, tôn kính cha mẹ, là trách nhiệm trông nom, săn sóc cha mẹ với tất cả tình cảm sâu nặng của người con.
Sự vận dụng mấy khái niệm Nho giáo trên đây ở Nguyễn Đình Chiểu cũng đủ chứng minh rằng, ngay khi Nho giáo đã lỗi thời, một người trí thức đứng trên quan điểm và lập trường nhân dân vẫn có khả năng đưa vào những khái niệm của Nho giáo những giá trị cao đẹp vốn nảy sinh trong cuộc sống của đông đảo quần chúng lao động.
Ngày nay, đọc lại những tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu, chúng ta hết sức trân trọng những thành công mà ông đã đạt được và cũng cảm thấy một cách thâm thìa rằng, chính những thành công đó, chính những giá trị cao đẹp trong thơ văn của ông có liên hệ mật thiết với quan điểm, lập trường nhân dân và lòng yêu nước, thương dân vô hạn của ông, nhất là có liên hệ với cuộc đời gắn bó với nhân dân của ông. Mối liên hệ đó là một bài học vô cùng quý giá về sự thành công của người trí thức, một bài học đến bây giờ vẫn còn nóng hổi và có ý nghĩa thời sự.
(Theo Nguyễn Đức Sự, Tạp chí Triết học)