Soạn bài Chữ người tử tù

  • Chữ người tử tù trang 1
  • Chữ người tử tù trang 2
  • Chữ người tử tù trang 3
  • Chữ người tử tù trang 4
  • Chữ người tử tù trang 5
  • Chữ người tử tù trang 6
  • Chữ người tử tù trang 7
  • Chữ người tử tù trang 8
  • Chữ người tử tù trang 9
  • Chữ người tử tù trang 10
  • Chữ người tử tù trang 11
CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ
Nguyễn Tuân
KIẾN THỨC Cơ BẢN
A. Giới thiệu
1. Nguyễn Tuân (1910 - 1987) sinh ra trong một gia đình nhà Nho, quê ở Hà Nội. Khi còn nhỏ, Nguyễn Tuân đã theo gia đình sống ở nhiều tỉnh miền Trung. Ông học thành chung ở Nam Định, sau đó về Hà Nội viết văn và làm báo. Nguyễn Tuân sáng tác khá sớm, nhưng chỉ thực sự nổi tiếng từ khoảng năm 1940.
Cũng như nhiều nghệ sĩ khác, Nguyễn Tuân đến với cách mạng và tích cực dùng ngòi bút phục vụ hai cuộc kháng chiến của dân tộc. ông đã nhiều năm giữ trọng trách trong Hội Văn nghệ và Hội Liên hiệp văn học - nghệ thuật Việt Nam.
Tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Tuân trước Cách mạng: Tập kí “Một chuyến đi”, tập truyện ngắn “Vang bóng một thời” và tập tùy bút “Chiếc lư đồng mắt cua”,...', sau Cách mạng là các tập tùy bút “Tình chiến dịch”, “Sông Đà”, “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi”,...
Với phong cách nghệ thuật độc đáo, trình độ sử dụng tiếng Việt điêu luyện, nhất là sở trường về thể loại tùy bút, Nguyễn Tuân có vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
“Vang bóng một thời” là tập truyện tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân trước Cách mạng, bao gồm 11 truyện, viết về một thời đã qua nay chỉ còn “vang bóng”.
Nhân vật chính trong “Vang bóng một thời” chủ yếu là những Nho sĩ cuối mùa, dường như mỗi người đều có cái tài riêng. Nhưng gặp lúc Hán học suy vi, “Tây Tầu nhố nhăng, làm lạc mất quan niệm cũ, làm tiêu hao bao giá trị tinh thần”, họ cảm thấy mình “chọn nhầm thế kĩ”, nhưng đành buông xuôi, bất lực. Tuy vậy, họ vẫn cố giữ “thiên lương” và “sự trong sạch của tâm hồn” bằng cách thực hiện “cái đạo của người quân tử” với những thú chơi cầu kì, tao nhã như: thưởng thức chén trà buổi sớm với tất cả nghi lễ thiêng liêng; làm một chiếc đèn trung thu mà công phu như làm một công việc trọng đại của cuộc đời; uống rượu “thạch lan hương”, chơi hoa, “thả thơ”...
Qua “Vang bóng một thời”, Nguyễn Tuân đã:
+ Thể hiện niềm nuôi tiếc vẻ đẹp của một thời quá vãng;
+ Bộc lộ sự đối lập giữa “cái tôi” tài hoa, kiêu bạc đối với xã hội phàm
tục, nhơ bẩn đương thời;
+ Thể hiện niềm trân trọng, tự hào về truyền thông văn hóa lâu đời của dân tộc;
+ Bày tỏ sự căm phẫn đô'i với bọn cướp nước và bán nước.
“Chữ người tử tù” là truyện ngắn đặc sắc nhất của tập “Vang bóng một thời”. Truyện được in năm 1939 trên tạp chí Tao đàn với nhan đề “Dòng chữ cuối cùng”, đến năm 1940 được đưa vào tập “Vang bóng một thời”.
Trong những tác phẩm sáng tác trước cách mạng, nhìn chung, thế giới nhân vật của Nguyễn Tuân gồm hai loại người đôi lập nhau. Loại thứ nhất vừa có “thiên lương” trong sáng lại vừa có tài năng xuất chúng. Loại thứ hai gồm những kẻ tiểu nhân phàm tục. Loại thứ nhất thì hiếm hoi, còn loại thứ hai thì đầy rẫy trong xã hội.
Truyện ngắn “Chữ người tử tù” chủ yếu viết về loại nhân vật thứ nhất. Nguyễn Tuân đã sáng tạo nên một tình huống độc đáo: Ba nhân vật là Huấn Cao, quản ngục và thầy thơ lại tình cờ gặp gỡ nhau trong một hoàn cảnh thật oái oăm ở chôn tù ngục. Huấn Cao là tử tù chờ ngày ra pháp trường; còn hai người kia có bổn phận cai quản tù nhân. Từ chỗ đối địch, ngờ vực nhau, họ dần dần hiểu rõ nhân cách của nhau và trở thành những tri âm, tri kỉ. Điều lạ lùng đó đã được diễn ra ngay ở giữa nơi tù ngục, xưa nay chỉ có cái ác độc và sự bẩn thỉu, tăm tôi,... ngự trị. Qua tác phẩm này, Nguyễn Tuân ngợi ca cả ba nhân vật. Có thể coi Huấn Cao lấ biểu tượng của cái tài, cái đẹp và “thiên lương” cao quý. Quản ngục và thầy thơ lại là những người trân trọng, gìn giữ cái tài, cái đẹp và “thiên lương”.
Hầu như mỗi truyện ngắn của tập “Vang bóng một thời” đều viết về một thú chơi, một nhân vật tài hoa. Truyện “Chữ người tử tù” viết về thú chơi chữ, về nghệ thuật thư pháp.
Từ xa xưa, ở Trung Quốc cũng nhu một số nước lân cận ít nhiều đã từng dùng chữ Nho như Nhật Bản, Việt Nam, Triều Tiên, trong giới trí thức có thói quen chơi chữ. Người có chữ đẹp thường rất được quý trọng; người ta thường nói “văn hay, chữ tốt”. Chữ Nho là một thứ văn tự tượng hình, viết bằng bút lông mềm mại. Không ít chữ nếu viết đẹp nhìn tựa hồ như một bức tranh có nét đậm, nét nhạt. Do đó, cá tính người viết cũng thường được thể hiện qua nét bút.
Người ta thường mua chữ hoặc xin chữ. Người cho chữ hoặc bán chữ viết lên bức tranh, bức lụa, tờ giấy,... để chủ nhân làm vật trang trí trong nhà. Chữ không những phải viết rất đẹp mà ý nghĩa của chữ cũng phải sâu sắc, phải hợp tình, hợp cảnh. Đây thực chất là một tác phẩm mĩ thuật của người nghệ sĩ, vừa có tài vẽ chữ, vừa có khả năng thấu hiểu ý nghĩa của chữ. Bộ môn nghệ thuật này được gọi là tliư pháp.
Ở Việt Nam thời phong kiến, Cao Bá Quát được coi là một trong những nghệ sĩ thư pháp đầy tài hoa, người đứng đầu trong nghệ thuật thư pháp.
B. Đọc - Hiểu văn bản:
ỉ. Nhãn vật Huấn Cao
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh, chính Nguyễn Tuân cho biết ông đã dựa vào nguyên mẫu là Cao Bá Quát (1808 - 1854?). Đây là một bậc tàí hoa lỗi lạc, chữ viết đẹp, giỏi thơ phú. Đặc biệt, Cao Bá Quát còn là con người có bản lĩnh kiên cường, tâm hồn sáng trong, không bao giờ chịu khuất phục trước cường quyền, bạo lực. Căm ghét xã hội thôi nát đương thời, ông đã góp phần lãnh đạo nông dân vùng Mĩ Lương (Hà Tây) khởi nghĩa và bị triều đình phong kiến nhà Nguyễn sát hại.
Huấn Cao trước hết là con người rất tài hoa
Đáng chú ý là Nguyễn Tuân không cần để Huấn Cao trực tiếp xuất hiện, chỉ thông qua một đoạn đối thoại ngắn giữa quản ngục và thầy thơ lại ở đầu tác phẩm, nhà vãn đã tạo cho người đọc ấn tượng khá rõ về một người tử tù hết sức tài hoa, một nghệ sĩ trong nghệ thuật thư pháp “viết chữ rất nhanh và đẹp". Vì thế, ông nổi tiếng khắp vùng tỉnh Sơn. Ngay viên quản ngục ở cái huyện nhỏ vô danh cũng biết “chữ ông Huấn Cao đẹp lắm, vuông lắm [...]. Có được chữ ông Huấn mà treo là có một vật báu trên đời”. Bởi vậy, “sở nguyện của viên quản ngục này là có một ngày kia treo ở nhà riêng mình một đôi câu đối do tay ông Huấn Cao viết”. Để có được chữ của ông Huấn Cao, viên quản ngục không những phải nung nấu, nghĩ suy, phải nhẫn nại, mà còn phải rất dũng cảm. Bởi lẽ, biệt đãi Huấn Cao - một kẻ tử tù - là việc làm nguy hiểm, có thể phải trả giá bằng chính tính mạng của mình.
Huấn Cao là một trang anh hùng dũng liệt
Trước hết, con người này dám chông lại triều đình mà ông căm ghét. Dưới mắt Huấn Cao, những kẻ đại diện cho quyền lực thông trị đang nắm tính mạng ông chỉ là một lũ “tiểu nhân thị oai”. Do đó, tuy dưới quyền cai quản của chúng, nhưng ông vẫn cố tình tỏ ra khinh bạc. Nguyễn Tuân để cho Huấn Cao trực tiếp lần đầu tiên trước viên quản ngục (và độc giả) bằng hành động dỗ cái gông nặng 7 - 8 tạ “xuống nền đá tảng đánh thuỳnh một cái" và “lãnh đạm”, “không thèm chấp” khi nghe lời dọa dẫm của đám lính áp giải tù. Bằng việc làm này, Huấn Cao đã chứng tỏ rằng, cho dù thân xác bị xích xiềng, nhưng tinh thần của ông vẫn hoàn toàn tự do. Huấn Cao vẫn bình thản làm những việc mà mình cần làm, dường như không bị lệ thuộc vào ý muôn của những kẻ đại diện cho quyền lực thông trị.
Thế rồi, sau khi quản ngục khép nép hỏi Huấn Cao: “... Ngài có cần thêm gì nữa xin cho biết. Tôi sẽ cố gắng chu tất”. Ông đã trả lời với thái độ đầy khinh bỉ: “Ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điểu. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”.
Là tử tù chỉ đợi ngày rơi đầu trước pháp trường, vậy mà Huấn Cao vẫn “thản nhiên nhận rượu và ăn thịt, coi như đó là một việc vẫn làm trong cái hứng sinh bình” và giữ phong thái ung dung, đường hoàng. Đó là phong thái của người anh hùng “chọc trời khuấy nước”, “có hoài bão tung hoành”, xem “cái cảnh chết chém” nhẹ như lông hồng.
Huấn Cao là con người có “thiên lương” trong sáng, cao đẹp
Huấn Cao có tài viết chữ nhanh và đẹp, nhưng không phải ai ông cũng cho chữ. “Tính ông rất khoảnh”, ông không bao giờ ép mình cho chữ vì vàng ngọc hay quyền thế. Huấn Cao chỉ trân trọng những ai biết yêu quí cái đẹp, cái tài. Kiêu sa là thế, nhưng đến khi hiểu rõ tấm lòng của quản ngục, Huấn Cao chẳng những vui vẻ nhận lời cho chữ, mà còn thốt lên những câu thật chân thành: “Ta cảm cái tấm lòng biệt nhãn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quỷ làm vậy. Thiếu chút nữa, ta đi phụ mất một tấm lòng trong thièn hạ”.
Và sau khi cho chữ xong, Huấn Cao không quên vỗ về, khuyên bảo quản ngục như người cha khuyên bảo con: “Tôi bảo thực đẩy: Thầy quản nên tìm về nhà quê mà ở đã, thầy hãy thoát khỏi cái nghề này đi đã, rồi hãy nghĩ đến chuyện chơi chữ. Ớ đây, khó giữ thiền lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi”. Như vậy, theo Huấn Cao, cái đẹp không thể chung sống với cái xấu xa, thấp hèn và con người chỉ có thể thưởng thức được cái đẹp, nếu giữ được bản chất trong sáng.
- Đoạn cho chữ ở cuối truyện có thể xem là đoạn hay nhất, kết tinh nghệ thuật của toàn tác phẩm. Qua đoạn này, hình ảnh ông Huấn Cao càng trở nên uy nghi, lẫm liệt, giữa một cảnh tượng “xưa nay chưa từng có”.
Ớ đây, thủ pháp đô'i lập được sử dụng một cách triệt để và đã mang lại hiệu quả to lớn. Ây là việc cho chữ vón là một việc thanh cao, một sáng tạo nghệ thuật với mực thơm, lụa trắng, nét chữ tươi tắn,... lại được diễn ra trong “buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, tường dầy mạng nhện, tổ rệp, đắt bừa bãi phân chuột, phân gián”.
Kì lạ hơn là sự đô'i lập giữa hình ảnh kì vĩ của người tử tù “cổ đeo gông, chân vướng xiềng” chỉ sáng mai sẽ bị giải vào kinh chịu án tử hình đang ung dung phóng bút tô những nét chữ tài hoa trên tấm lụa bạch như một nghệ sĩ hoàn toàn tự do, tự chủ,... với hình ảnh so ro của thầy thơ lại “run run bưng chậu mực” và hình ảnh viên quản ngục “khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ’, rồi chắp tay vái người tử tù, “nói một câu mà dòng nước mắt rỉ vào kẽ miệng làm cho nghẹn ngào: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
Chính sự đối lập dường như phi lí này đã tạo ra cảnh tượng mà tác giả gọi là “xưa nay chưa từng có” trong nhà tù. Nhưng cái lạ hơn lại là ở chỗ: té ra, giữa chốn tù ngục bạo tàn, không phải những kẻ đại diện cho quyền lực thống trị làm chủ mà là người tử tù đang bị xiềng gồng. Đây là sự chiến thắng của cái đẹp, cái tài hoa và nhân cách cao thượng đối với cái xấu xa, độc ác, thấp hèn. Ý nghĩa tư tưởng của thiên truyện chủ yếu là ở đấy.
Huấn Cao là nhân vật siêu phàm (thường thấy trong văn học lãng mạn). Ớ nhân vật này, chữ tài và chữ tâm kết hợp hài hòa với nhau, ông cũng như nhiều nhân vật chính diện của Nguyễn Tuân trong “Vang bóng một thời”, nhất thiết phải là con người tài hoa. Song, nếu như phần đông những nhân vật khác trong “Vang bóng một thời" đành chỉ biết tiêu dao ngày tháng bên chén trà, li rượu... để giải sầu, thì Huấn Cao luôn có trách nhiệm với thời cuộc, dám đứng lên chông lại triều đình thối nát. Vì vậy, hơn bất kì một tác phẩm nào của Nguyễn Tuân ra đời trước Cách mạng, “Chữ người tử tù” mang tính khuynh hướng rõ nét. Bằng việc ngợi ca Huấn Cao - kẻ tử thù của xã hội đương thời, Nguyễn Tuân đã bộc lộ thái độ căm ghét đốì với xã hội đó, khao khát vươn tới một môi trường sống tốt đẹp hơn. Điều ấy cũng có nghĩa là ông đã gửi gắm vào tác phẩm này tấm lòng yêu nước thầm kín, nhưng không kém phần cảm động, thiết tha.
Nhăn vật viên quản ngục
Viên quản ngục cũng là một nhân vật độc đáo. Đúng là viên quản ngục của Nguyễn Tuần. Ông ta say mê cái đẹp và nhân cách cao thượng của con người, nên chân thành biệt đãi Huân Cao, hằng ngày sai người dâng “rượu và thức nhắm”, nói năng với người tù này hết sức cung kính. Trước tài năng và nhân cách cao cả của ông Huấn, quản ngục nhận thấy, mình chỉ là một “kể tiểu lại giữ tù” thấp hèn. Say mê cái đẹp, cảm phục tài năng và nhân cách Huấn Cao, chính viên quản ngục chứ không phải ai khác, đã bất chấp luật pháp, làm đảo lộn trật tự trong nhà tù, biến kẻ phạm nhân, trọng án thành một thần tượng rực rỡ để ngưỡng vọng, để tôn thờ.
Con người như thế quả là “thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”, là “cái thuần khiết giữa một đống cặn bã”. Lúc đầu viên quản ngục và thầy thơ lại nghi kị lẫn nhau; nhưng cái đẹp và tình yêu cái đẹp đã làm cho họ hiểu biết, gắn bó, tin cậy lẫn nhau. Đô'i với hai nhân vật này, bên trong con người công cụ của chính quyền tàn bạo là một tâm hồn giàu chất nghệ sĩ. Quản ngục khúm núm trước cái đẹp, nhưng đồng thời không thiếu sự dũng cảm, ngang tàng. Bằng việc biệt đãi Huấn Cao và nhất là bằng việc xin chữ, chứng tỏ quản ngục sẵn sàng chết vì cái đẹp, vì nghệ thuật - nếu việc này bị bại lộ.
Nhiều người có định kiến: Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân là một cầy bút duy mĩ, nghệ thuật vị nghệ thuật (tức là ngoài nghệ thuật, ngoài cái đẹp, nhà văn không quan tâm đến bất cứ một điều gì khác).
“Chữ người tử tù” có thể coi là một bằng chứng để bác bỏ định kiến ấy. Qua nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục, ta thấy tác giả không hề đôi lập tài và tâm, cái đẹp với thiên lương trong sạch của con người, ồng tin rằng: “Một kẻ biết kính mến khí phách, một kẻ biết tiếc, biết trọng người có tài hẳn không phải là kẻ xấu hay vô tình”. Và một khi cái đẹp, cái tài, cái tâm không thể tách rời, thì nghệ thuật có khả năng cảm hóa con người, dù phải sống trong chôn bùn đen nhơ bẩn nhưng viên quản ngục nếu thực sự yêu cái đẹp thì vẫn không mất đi khả năng hướng thiện.
c. Tổng kết:
Bằng nghệ thuật dựng người, dựng cảnh và cách sử dụng ngôn ngữ điêu luyện, truyện ngắn “Chữ người tử tù” đã ngợi ca Huấn Cao - một con người tài hoa, hiên ngang, bất khuất và có “cái tâm” trong sáng.
Qua đó, Nguyễn Tuân khẳng định sự bất tử của cái đẹp, cái thiện và bộc lộ tấm lòng yêu nước thầm kín, thiết tha.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề: Quan niệm về cái Đẹp của Nguyễn Tuân trong truyện ngắn “Chữ người tử tù”.
BÀI VIẾT GỢl ý
Nguyễn Tuân (1910 - 1987) cả một đời văn đi tìm cái Đẹp. Nhưng khác với Thạch Lam, tâm hồn ông hướng tới những nét toàn thiện, toàn mĩ, vượt lên khỏi giới hạn của cái bình thường, luôn nhìn nhận thế giới và con người ở phương diện thẩm mĩ - vãn hoá.
“Vang bóng một thời” như là một điểm xuất phát của quan điểm nghệ thuật mang dấu ấn cá tính con người tài hoa, tài tử Nguyễn Tuân. Mười một truyện ngắn dựng lên những chân dung đặc sắc khó quên của một thời quá vãng, tiêu biểu cho khuynh hướng thoát li của Nguyễn Tuân trước Cách mạng: những thú chơi tao nhã, những con người của quá khứ xa xăm, thực ra là một cách cất nghĩa cho tấm lòng của nhà văn vốn nặng tình cùng thời vàng son dĩ vãng. Nhưng ẩn chứa trong tập truyện là một tâm hồn dân tộc yêu tha thiết những giá trị đã trở thành truyền thông. Bên cạnh đó, tác phẩm còn là nơi gửi gắm tâm sự yêu nước, tâm trạng bất hoà của một người trí thức luôn cảm thấy bức bô'i trong khuôn đời chật hẹp. Cảm hứng đặc biệt mãnh liệt của Nguyễn Tuân gắn với những nhân vật đối lập với trật tự khuôn phép phong kiến, thể hiện tập trung trong truyện ngắn “Chữ người tử tù", giúp ta hiểu sự chân thành, sâu lắng của Nguyễn Tuân trong cái vỏ khác người, kiêu bạc.
Tác phẩm là câu chuyện xoay quanh nét chữ của Huấn Cao - người tử tù bất khuất. Xung quanh trục chính của câu chuyện là những nhân vật thầy thơ lại, viên quản ngục và Huấn Cao. Họ vốn là kẻ thù với nhau trong cuộc sốhg, nhưng lòng yêu cái Đẹp giúp họ tìm đến với nhau như những người bạn tâm giao.
Cho đến tận thế kỉ XXI, trên văn đàn vẫn còn những cuộc tranh luận sôi nổi xung quanh “Chữ người tử tù" về nhân vật chính của tác phẩm: Chữ hay là người tử tù Huấn Cao mới là cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm này của Nguyễn Tuân? Điều đó cho thấy tính phức tạp, đa nghĩa của tác phẩm. Chính vì vậy, sức hấp dẫn của tác phẩm vẫn còn nguyên vẹn. Tuy nhiên cần phải nhìn nhận tác phẩm này từ quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân trước Cách mạng, đồng thời gắn với đặc trưng “văn học là nhân học” để xác định rõ tư tưởng của “Chữ người tử tù”. Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân là đại diện cho khuynh hướng thoát li trong văn học lẵng mạn bằng việc đề cao những vẻ đẹp “vang bóng một thời". Lấy cái tôi làm trung tâm để nhìn nhận cuộc sông, ít nhiều trong tác phẩm, người nghệ sĩ lãng mạn bao giờ cũng muốn bộc lộ chính những suy ngẫm, tâm trạng của riêng mình. Không phải ngẫu nhiên tác phẩm lại chọn nguyên mẫu Cao Bá Quát để tạo dựng hình tượng Huấn Cao, vì ít ra nhà văn cũng cảm nhận được mối quan hệ tương đồng giữa bản thân mình với nhân vật. Mặt khác, trước Cách mạng, Nguyễn Tuân luôn lấy tiêu chuẩn đánh giá con người ở ba khía cạnh: cái Tài - cái Đẹp - cái Thiên lương nên Huấn Cao là hình tượng độc đáo giúp nhà văn phát biểu quan niệm của chính ông về con người một cách toàn diện. Chữ - thư pháp vốn là sở hữu của bậc vãn nhân tài tử thời xưa, là phương tiện diễn tả thần thái, tinh hoa của con người, là hiện hình cụ thể của chủ thể thẩm mĩ. Vì vậy, không thể xem chữ là nhân vật trung tâm của tác phẩm. Con người và những vẻ đẹp Người bao giờ cũng là trung tâm cảm hứng của văn học lãng mạn, chữ của Huấn Cao thực chất là sự lí giải một góc tâm hồn Huấn Cao, là lời ca tụng cái đẹp Con Người trong hoàn cảnh tưởng chừng chỉ tồn tại những điều xấu xa.
Xem Huấn Cao là nhân vật đại diện cho cái Tài - cái Đẹp - cái Thiên lương theo quan niệm Nguyễn Tuân cũng cần phải xét đến vai trò của viên quản ngục và thầy thơ lại. Bởi, cái đẹp chỉ thật sự có ý nghĩa khi có người biết thưởng thức. Đó cũng là một khía cạnh chủ đề của tác phẩm mà nhà văn muốn thông qua những nhân vật cua mình để phát biểu. Sẽ không ai biết đến Huấn Cao vào những thời khắc khóc liệt nhất của đời ông nếu như không có những người như quản ngục, thơ lại. Hai nhân vật này cùng Huấn Cao làm nên “ba đốm sáng đặc biệt” trên nền hiện thực tăm tối.
Tác phẩm hấp dẫn người đọc trước hết ở lối dựng chuyện rất ấn tượng của Nguyễn Tuân. Bản thân ông ý thức rất rõ về việc tạo không khí cho tác phẩm để từ đó diễn giải về số phận, tính cách nhân vật. Vốn là một người rất am hiểu văn hoá phương Đông, tiếp thu ảnh hưởng của cha, Nguyễn Tuân có biệt tài tái hiện những hình ảnh xa xãm của một thời “một đi không trở lại”. Không khí cổ điển bao trùm toàn bộ tác phẩm ngay từ câu đầu tiên: “Nhận được phiến trát của quan Sơn Hưng Tuyên đốc bộ đường..”, để từ đó những con người của một thế giới xa xưa hiện ra trước mắt ta nguyên hình rõ nét. Nhân vật chính chưa xuất hiện mà tác phẩm lại bắt đầu từ tâm trạng nửa lo, nửa mừng của viên quan đứng đầu nhà ngục khi nghe tin Huấn Cao sẽ bị áp giải đến nơi mình cai quản. Bổn phận của một bề tôi trung thành là phải làm tròn chức trách nên trong cuộc trao đổi giữa ngục quan với thuộc cấp đã hiện lên một kẻ mẫn cán trong phận sự. Hoàn cảnh đề lao đã tạo nên con người theo khuôn phép, cẩn trọng, đúng mực như ngục quan. Nhưng để thấy con người thực của ngục quan và nỗi băn khoăn của ông ta, cần phải gắn cùng một hoàn cảnh khác, tâm trạng khác. Bởi qua những dòng đầu tiên, người đọc biết đến niềm khao khát được thưởng thức tài hoa tuyệt đỉnh của thư pháp trong nét chữ tên tử tù Huấn Cao của một người nắm quyền sinh quyền sát trong tay. Nhưng là người biết định giá cái Đẹp và đến với cái Đẹp bằng tất cả tấm lòng, ngục quan cũng hiểu rõ tình thế khó xử của chính mình. Để nhân vật một mình lọt thỏm trong mênh mông bóng tối của nhà ngục, Nguyễn Tuân đã thuật lại khá đầy đủ những xung đột bên trong của nhân vật. Ngôn ngữ miêu tả tâm lí của Nguyễn Tuân đã đạt đến trình độ bậc thầy khi ông đi sâu mổ xẻ những uẩn khúc trong lòng nhân vật một cách rất tự nhiên, gắn kết với khung cảnh.
Để cắt nghĩa tâm trạng ngục quan, Nguyễn Tuân đã khắc họa khoảnh khắc ngục quan khơi lại ngọn đèn dầu sở soi sáng khuôn mặt, đối diện chính bản thân. Đây cũng là thử pháp thường gặp trong văn xuôi hiện đại. Nhà văn cũng đã không ngần ngại bộc lộ cảm tình của mình với ngục quan, khi ông dùng những nét vẽ bằng ngôn ngữ phác họa chân dung nhân vật một cách trân trọng. Phẩm chất nhân vật được khái quát đầy đủ ngay từ đầu với những nét tương hợp giữa ngôn ngữ, ngoại hình và nội tâm của nhân vật. Đàng sau khuôn mặt bình thản như mặt nước hồ thu là cả một thế giới tâm hồn đáng trọng: “trọng người ngay, biết giá người...”, là cơ sở nhà văn khẳng định tâm hồn ngục quan như “bản đàn trong trẻo” trong thế giới tạp âm, đối lập với “bọn cặn bã", “lũ quay quắt”. Nhân vật đối lập với hoàn cảnh luôn là đặc điểm hàng đầu trong sáng tác của Nguyễn Tuân, là chiếc chìa khóa mở tung những cửa ngách phức tạp của hồn Nguyễn Tuân, văn Nguyễn Tuân. Đoạn đặc tả chân dung nhằm diễn giải cho tình huôhg thử thách xảy đến cùng ngục quan: liệu giữa con người bản chất và con người mặt nạ, phía nào sẽ thắng thế? Tâm nguyện của ngục quan có cơ hội thực hiện, nhưng bằng con đường nào phải lẽ, bản thân nhân vật phải trải qua quá trình đấu tranh căng ựiẳng với chính mình. Xin được chữ Huấn Cao - con người “vãn hay chữ tốt nổi tiếng một vùng" là vinh hạnh của một kẻ như quản ngục, bị giam cầm trong bổn phận, trách nhiệm. Liệu nhân vật có vượt qua được thử thách hay không? Câu hỏi định hình từ phía nhà văn đã gợi được trí tò mò cho bạn đọc để làm nên một không khí khác hẳn với lối diễn giải một chiều của tiểu thuyết chương hồi, phơi bày những phức tạp, mâu thuẫn nội tầm để làm rõ nét chân dung đặc sắc của ngục quan.
Nếu Huấn Cao là nhân vật trung tâm của tác phẩm thì ngục quan chính là nhân vật đối chiếu để làm rõ cho ý đồ của nhà văn. Thế nhưng góc nhìn đối sánh ấy lại bắt đầu từ vị thế đối lập giữa hai nhân vật. Ngay từ khoảnh khắc đầu tiên xuất hiện giữa nhà ngục, Huấn Cao đã hiện ra sừng sững những cốt cách, khí phách của một anh hùng. Chiếc gông đeo cổ sáu tử tù - biểu tượng dữ tợn của quyền uy và tội ác với kích cỡ “xứng đáng", với màu “đen hóng" vì mồ hôi bao kẻ tử tội, trở nên tầm thường thảm hại trước thái độ lạnh lùng “dỗ gông" của Huấn Cao. Giữa ranh giới sống - chết mong manh, khí phách “uy vũ bất năng khuất” (uy vũ không thể khuất phục) của Huấn Cao không thể được hiểu bằng đầu óc u tối của đám lính lệ dựa hơi quan quyền ra oai phách lối. Chỉ có thái độ “liỉền lành khác hẳn ngày thường" của ngục quan mới là sự trọng thị thật sự của những người ý thức bản thân rõ nét. Nguyễn Tuân đã thuật lại quá trình tìm cách tiếp cận Huấn Cao của ngục quan hoàn toàn khách quan và hợp logic phát triển trên tâm lí nhân vật. Nhưng ông cũng giúp thấy rõ nghịch cảnh trớ trêu, một đàng tìm cách gần gũi, một đàng cảnh giác, tuyệt giao. Nỗi khổ tâm của ngục quan càng tăng thì sự lạnh lùng “khinh bạc đến điều" của Huấn Cao càng tỏ rõ sự cứng rắn, đầy bản lĩnh của người anh hùng mạt lộ. Đơn giản một điều là họ chưa tìm thấy tiếng nói chung khi vị thế hai người được đặt trong sự đối đầu về mặt xã hội.
Đỉnh cao của xung đột đầu tiên giữa hai kẻ không cùng chiến tuyến là lúc ngục quan mạo hiểm xuất hiện trước mặt Huấn Cao và nhận được câu trả lời đuổi thẳng. Đáp lại thái độ khinh bạc của Huấn Cao là một lời bẽ bàng của quản ngục “Xin lĩnh ý”. Tưởng chừng sau phút đó, chuyện sẽ rẽ ngoặt sang hướng khác: kính trọng sẽ thành thù hận. Nhưng điều bất thường là rượu thịt cung phụng cho “thú sinh bình” của Huấn Cao lại còn hậu hơn trước khiến nảy sinh tình huống mới: thái độ ngạc nhiên, băn khoăn về quản ngục của Huấn Cao. Ngạc nhiên là phải, vì đàng sau rượu thịt không phải là những trò mua chuộc hạ sách mà ông Huấn Cao từng biết. Băn khoăn của Huấn Cao xoay quanh bí ẩn về nhân thân của quản ngục. Nét đặc sắc trong nghệ thuật dựng chân dung nhân vật của Nguyễn Tuân là ở đó, ông đặt nhân vật vào những ranh giới đòi hỏi sự lựa chọn đúng - sai, thật - giả, tốt - xấu... để khám phá thêm những mặt tiềm ẩn của tâm hồn con người, hé lộ những mặt đa dạng của tính cách nhân vật.
Lời giải đáp cho băn khoăn của Huấn Cao đến trong một hoàn cảnh thật nghiệt ngã, ông phải đứng trước thử thách của chính mình. Ranh giới phân định không còn nằm trong thế cho con người lựa chọn như trước, bởi đó là sự sống còn và cái chết của chính ông. Kết cục số phận của một người tử tù là cái chết, nhưng trước cái chết, con người cũng có những phản ứng khác nhau. Một người bình thường sẽ mặt tái nhợt, hốt hoảng như thầy thơ lại khi báo tin cho Huấn Cao, còn bản thân một kẻ “chọc trời khuấy nước” như Huấn Cao lại dường như bình thản đón nhận. Người anh hùng luôn đón đợi hiểm nguy, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng, phải chăng vì vậy Nguyễn Tuân đã không dùng một từ nào mô tả phản ứng của Huân Cao khi nghe tin dữ đến với mình. Giây phút “lặng người đi một lát rồi mỉm cười" của Huấn Cao chính là thời điểm mở ra thế giới thực của một con người tài hoa. Cuối cùng những “kẻ thù” trong đời đã gặp nhau ở một tấm lòng. Thời điểm này ta cũng nhận rõ hơn vai trò của thầy thơ lại. ông ta hoàn toàn không phải là người trung gian, kẻ đầu sai cho chủ. Cũng giông viên quản ngục, ông ta còn giữ được “thiên lương" nhưng hoàn cảnh không cho phép ông bộc lộ con người thực của mình. Thậm chí, so với ngục quan, thầy thơ lại còn hiện lên vẻ an phận thủ thường bằng dáng vẻ khúm núm, rụt rè, hớt hải của một kẻ ý thức được thân phận của mình. Nhưng đôi mắt “biết giá người” của ngục quan đã phát hiện được con người thực của ông ta. Thầy thơ lại chính là điểm tựa, là niềm tin giúp ngục quan đủ dũng khí vượt qua nỗi sợ hãi thường trực trong cảnh sống nơm nớp lo âu. Có thể xem thầy thơ lại là nhân vật bổ sung cho tính cách của ngục quan. Dầu cho ông ta không phải là người dam mê cái đẹp thư pháp giông như ngục quan, nhưng ông ta là người đóng vai trò xúc tác để cái đẹp tìm đến nhau. Cuộc sống rất cần loại người như thế. Trong thế giới nhân vật lí tưởng hoá của Nguyễn Tuân, viên thơ lại này là con người của đời thường, tận tâm trong công việc và tận tâm với cả bạn bè, dám vì người khác mà làm những việc nguy hiểm cho tính mạng bản thân. Không có thầy thơ lại, sẽ không có cuộc gặp gỡ giữa Huấn Cao với quản ngục, không có cảnh tượng cho chữ “xưa nay chưa từng có”.
Khi những hận thù, ngộ nhận được xoá nhoắ, nhà văn mới để Huấn Cao bộc lộ rõ con người thật bầng những lời nói cảm động. Điều bất ngờ của Huấn Cao về quản ngục còn làm người đọc bất ngờ hơn về thái độ của Huấn Cao khi ân hận “Thiếu chút nữa thì ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”. Huấn Cao bỗng trở nên gần gũi, rất con người sau câu nói này. Hoá ra nhân cách cao quý của Huấn Cao ngoài thái độ bất khuất, kiên cường còn có cả một tấm lòng biết trân trọng con người. Hoá ra nụ cười Huấn Cao không chỉ là “trông chết cười ngạo nghễ” mà còn là nụ cười sung sướng tìm được một con người có “sở thích cao quý” chính vào thời khắc sô' mệnh đã an bài. Cuộc gặp gỡ của những tấm lòng đã làm nên lời giải đáp, hoá giải mọi khổ tâm, băn khoăn, sợ hãi.
Nguyễn Tuân đã dựng lên một không gian đặc biệt để ba nhân vật gặp gỡ. Đúng như ông mô tả, đây là cảnh tượng “xưa nay chưa từng có". Những trang viết này đã thể hiện rõ nhất sự dồi dào, sung mãn của bút lực Nguyễn Tuân. Cảm hứng mạnh mẽ, tô đậm những nét độc đáo, phi thường đã làm nên những hình ảnh, cầu văn thật phóng khoáng. Bắt đầu của sự chuyển đổi không gian nhà ngục - vô'n tối tăm ghê rợn đã bừng sáng lên trong ánh lửa cháy “rừng rực” của những bó đuốc tẩm dầu. Xung đột Bóng tối - Ánh sáng mang ý nghĩa tượng trưng, điển hình cho một cảm hứng quen thuộc của chủ nghĩa lãng mạn. Đây là ánh sáng khác hẳn với sắc nhợt nhạt của “những vì sao” nhấp nháy sắp rụng, với ánh leo lét của ngọn đèn dầu sở soi sáng gương mặt ngục quan, tâm hồn ngục quan. Ánh đuốc làm bật lên ba con người đẹp đẽ trên nền hiện thực nhà tù tàn ác, xấu xa. Đốì cực giữa hoàn cảnh với con người nhờ vậy tạo được ấn tượng mạnh mẽ cho độc giả, tạo một tâm thế hào hứng đón nhận cái đẹp vượt lên thực tại tầm thường tù túng, để thật sự thăng hoa.
Cảnh tượng đẹp nhất đánh dâu thời khắc cái Đẹp lên ngôi chính là lúc Huấn Cao viết chữ, thầy thơ lại khúm núm bưng chậu mực, viên quan coi ngục đánh dấu lên từng con chữ. Vẫn là những con người ấy nhưng thật sự họ đã toàn tầm, toàn trí hướng về cái đẹp. Người sáng tạo, người thưởng thức, tôn vinh cái đẹp đã gặp gỡ nhau. Lời nói của Huấn Cao dành cho quan coi ngục là lời chỉ dành cho người tri âm, tri kỉ. Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng bình khoảnh khắc này là khoảnh khắc “ba đốm sáng gặp nhaư”, khoảnh khắc để con người cúi đầu trước cái đẹp, để thật sự cảm nhận vẻ đẹp toát lên từ con chữ, từ tấm lụa bạch, thỏi mực thơm...
Nhà văn khép lại câu chuyện bằng lời nói của ngục quan, như hứng lấy tâm huyết, hoài bão một đời của Huân Cao: “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh !”. Đó là lúc cái đẹp chiến thắng tuyệt đối, là lúc “ba người nhìn bức châm rồi lại nhìn nhau”. Họ đã thật sự chiến thắng nỗi sợ hãi, cái chết. Đó là thời khắc hội tụ cái Tài - cái Đẹp - cái Thiên lương.
“Chữ người tử tù” đã thể hiện trọn vẹn quan niệm về cái Đẹp của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám. Cái đẹp đối lập với thực tại tầm thường, giả trá, cái đẹp của những con người phản ứng thực tại xã hội đương thời. Và Nguyễn Tuân cũng đã đem lại cho người đọc thú thưởng thức vãn hoá rất đặc sắc trong nét chữ tài hoa. Tài hoa ấy, tấm lòng ấy cũng là của chính Nguyễn Tuân muốn gửi gắm lại cho cuộc đời này.