Soạn bài Vội vàng

  • Vội vàng trang 1
  • Vội vàng trang 2
  • Vội vàng trang 3
  • Vội vàng trang 4
  • Vội vàng trang 5
  • Vội vàng trang 6
  • Vội vàng trang 7
  • Vội vàng trang 8
  • Vội vàng trang 9
  • Vội vàng trang 10
  • Vội vàng trang 11
  • Vội vàng trang 12
  • Vội vàng trang 13
  • Vội vàng trang 14
  • Vội vàng trang 15
VỘI VÀNG Xuân Diệu
KIẾN THỨC Cơ BẢN
Giới thiệu
Xuân Diệu (1916 - 1985) họ Ngô (Ngô Xuân Diệu). Cha là một nhà Nho, quê ở làng Trảo Nha, nay là xã Đại Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; quê mẹ ở Gò Bồi, xã Tùng Giản, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.
7 ĐỖ tú tài, làm viên chức ở Mỹ Tho (Tiền Ỡiang), sau đó ra Hà Nội sông bằng nghề viết văn. Xuân Diệu có thơ đăng báo từ năm 1935, 1936 và nổi tiếng từ 1937 như một nhà thơ “mới nhất trong phong trào Thơ mới” (Hoài Thanh, “Thi nhân Việt Nam”Ỵ
- Xuân Diệu tham gia Mặt trận Việt Minh từ trước Cách mạng tháng Tám. Sau 1945, cuộc đời ông gắn bó với cách mạng và nền văn học cách mạng. Với gần 50 tác phẩm gồm thơ, văn, nghiên cứu phê bình, dịch thuật, Xuân Diệu là một trong những nhà thơ lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam. Ông từng là đại biểu Quốc hội, úy viên Ban Chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam các khóa I, II, III (1957 - 1985). Năm 1983, Xuân Diệu được bầu là Viện sĩ Thông tấn Viện Hàn lâm nghệ thuật Cộng hòa dân chủ Đức. Ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
“Vội vàng” là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám. Tác phẩm được rút ra từ tập “Thơ thớ” (1938). Đây là tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sông đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những tình cảm ấy là cả một quan niệm nhân sinh mới ít thấy trong thơ ca truyền thông.
Đọc - Hiểu văn bản:
Tình yêu cuộc sống của thi sĩ được biểu hiện qua niềm say mê, ngây ngất với mùa xuân
Mùa xuân trong thơ ca là một đề tài khá hấp dẫn và quen thuộc. Mùa xuân với đất trời, hoá cỏ xinh tươi, tràn trề nhựa sống đã tạo cảm hứng cho bao bài thơ ngâm vịnh, gợi bao suy nghĩ về con người, về cuộc sông. Đến vãn học lãng mạn, mùa xuân - vẻ đẹp của thiên nhiên - đã tạo xúc cảm cho bao hồn thơ, cho bao vần thơ đẹp:
Trong làn nắng ủng khói mơ tan,
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng.
Sột soạt gió trêu tà áo biếc,
Trên giàn thiên lí bóng xuân sang.
(“Mùa xuân chín” - Hàn Mặc Tử)
Bữa ấy mưa xuân phơi phới hay,
Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy.
Hội chèo làng Đặng đi qua ngõ,
Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay".
(“Mưa xuân” - Nguyễn Bính)
“Vội vàng" bắt đầu từ cảm hứng về mùa xuân. Cảm hứng không mới nhưng bài Thơ mới ở cách thể hiện và cường độ của cảm xúc. Bài thơ không bắt đầu từ hình ảnh mùa xuân, mà bắt đầu từ niềm khao khát say mê đối với mùa xuân. Nhân vật trữ tình bộc lộ trực tiếp ý muốn của mình:
Tôi muốn tắt nắng đi,
Cho màu đừng nhạt mất.
Tôi muốn buộc gió lại,
Cho hương đừng bay đi.
Quả thật là một ý muốn táo bạo. Bôn câu thơ ngắn với lời lẽ oai nghiêm như mệnh lệnh. Con người như muôn đoạt quyền của tạo hoá, bắt thiên nhiên phải ngừng lại để mình được tận hưởng mãi hương sắc của mùa xuân. Hồn thơ thiết tha với đời đang lo lắng trước sự đổi thay của đất trời nên muôn vũ trụ ngừng quay để giữ lại tất cả mọi vẻ đẹp. Thiết tha với cái đẹp, muôn cái đẹp không bao giờ phai tàn, ý muốn ấy của Xuân Diệu đã gặp gỡ niềm khao khát của bất cứ người nghệ sĩ nào xưa nay.
Ý muôn của thi sĩ có vẻ vô lí, nhưng niềm khát khao hoàn toàn có lí, khi mùa xuân được thi sĩ phát hiện bằng biết bao hương sắc, âm thanh, hình ảnh, tươi đẹp đến mức tuyệt vời. Có thể nói đó là bức tranh xuân đẹp nhất, rực rỡ nhất, xôn xao nhất trong dòng thơ xuân xưa nay:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi.
Điệp từ “này đây” liên tiếp mở ra bao vẻ đẹp của mùa xuân đến bất tận. Mùa xuân hiện ra thật cụ thể, vô cùng quyến rũ: Có hạnh phúc ngọt ngào trong “tuần tháng mật” của ong bướm, có cái lộng lẫy “hoa của đồng nội xanh rì”, có cái mơn mởn trẻ trung “lá của cành tơ phơ phất”, có âm thanh rạo rực nồng nàn trong “khúc tình si” của yến anh, có cái rực rỡ chan hoà “ánh sáng chớp hàng mi”. Qua “cặp mắt xanh non biếc rờn” của thi sĩ, cuộc sông trần thế xung quanh bỗng được phát hiện như một thiên đường, phong phú và giàu có. Mỗi vẻ dẹp của mùa xuân đều tràn đầy nhựa sống, đều gợi đến tuổi trẻ, tình yêu và hạnh phúc.
Đằng sau bức tranh xuân là hình ảnh nhân vật trữ tình đang ngỡ ngàng khi phát hiện ra mọi vẻ đẹp, đang reo vui trong niềm tận hưởng, trong niềm tha thiết với tình yêu và cuộc sông.
Vẻ đẹp của mùa xuân và cảm xúc mãnh liệt của con người đạt đến cực điểm trong một liên tưởng độc đáo: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.
Xuân Diệu không nói cả mùa xuân mà chỉ nói mỗi tháng giêng - tháng đẹp nhất, tháng mở đầu của mùa xuân. Tháng giêng trở thành hội tụ tất cả những gì đẹp nhất của mùa xuân, của thiên nhiên, vì vậy nó không còn cái ý nghĩa trừu tượng của thời gian nữa. Cái hay của câu thơ là đã cụ thể hoá cái trừu tượng {.tháng giêng) bằng một cảm giác có tính vật chất của hành động ăn uống: “ngon”. Và hơn nữa, là một hình ảnh cụ thể của tình yêu: “ngon như một cặp môi gần”. Mùa xuân đẹp được so sánh với con người. Nếu thơ ca truyền thông lấy chuẩn mực của cái đẹp là thiên nhiên, thì với Xuân Diệu, chuẩn mực của cái đẹp là con người - mà phải là con người trong niềm hạnh phúc của tình yêu, con người trong độ đẹp nhất, căng đầy sức sông nhất của độ xuân thì.
ở Xuân Diệu, cảm hứng mùa xuân gắn với tuổi trẻ và tình yêu. Qua bức tranh mùa xuân, có thể thấy được cái tình Xuân Diệu - khát khao hạnh phúc, khát khao yêu đương, tha thiết với cuộc đời khi “sự sống mới bắt đầu mơn mởn”. Lòng ham sông yêu đời của Xuân Diệu không nằm ngoài hai chữ “xuân” và “tình”: “Xuân Diệu say đắm với tình yêu và hăng hái với mùa xuân, thả mình bơi trong ánh nắng, rung động với bướm chim, chất đầy trong tim mấy trời thanh sắc” (Thế Lữ).
Nỗi băn khoăn về sự phai tàn của mùa xuân và tuổi trẻ
Trong sâu thẳm của nỗi khát khao được sông, được giao cảm ở Xuân Diệu vẫn ẩn chứa một nỗi lo âu về sự trôi chảy của thời gian. Khi ông muôn tắt nắng, muốn buộc gió, thì không chỉ là bắt vũ trụ phải đứng lại mà còn là bắt thời gian phải ngừng trôi. Ngay khi ông đang tận hưởng mùa xuân thì ông cũng đã khắc khoải lo sợ bước đi của thời gian sẽ làm phai tàn hương sắc. Niềm khắc khoải đó khiến cho nỗi sung sướng không còn được trọn vẹn: “Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa”. Dấu chấm bẻ đôi câu thơ ném về hai đầu tâm trạng: Một của khao khát say mê, một của ai hoài u uất. Niềm vui tan biến như một huyền mộng trước một sự thật phũ phàng, trước cái lạnh lùng nghiệt ngã của thời gian. Thi sĩ đã cảm nhận được cái quy luật đó:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết nghĩa là tôi củng mất.
Lời thơ nặng nề như một sự thật trần trụi. Cái kết thúc đã hiện ra thấp thoáng ngay từ lúc mở đầu.
Thi sĩ nhận ra giới hạn của thời gian, cái giới hạn mà con người không thể vượt qua được:
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại !
Đó là sự đối kháng giữa con người và thiên nhiên, giữa “lòng tôi” với “lượng trời”. Mùa xuân của đất trời sẽ tuần hoàn, nhưng mùa xuân của con người thì “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”. Trời đất mãi mãi còn nhưng con người không còn.
Nhận thức sâu sắc được điều ấy, cảm xúc của thi sĩ về mùa xuân bỗng tan biến mất vẻ đẹp và niềm vui như ban đầu. vẫn là mùa xuân ấy, nhưng bây giờ hiện ra trong vẻ tàn phai, buồn bã. Rất tinh tế khi Xuân Diệu cảm nhận sự phai tàn trong “mùi tháng năm", nếm được “vị chia phôi", nghe được lời “tiễn biệt” của sông núi. “Cơn gió xinh thì thào" những lời chia tay với cành tơ lá biếc, chim đang rạo rực “khúc tình si” bỗng “đứt tiếng reo thi”. Đoạn thơ khép lại trong một lời than não nuột, tuyệt vọng: “Chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa".
Thi sĩ khắc phục hằng thái độ sống vội vàng
Nếu bài thơ ngừng lại ở niềm tuyệt vọng thì đã không phải là Xuân Diệu. Xuân Diệu với niềm khao khát vô biên không bao giờ đầu hàng thời gian. Cho nên, thi sĩ hối hả, vội vàng:
Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm.
Lời thơ giục giã như bao lần Xuân Diệu đã “giục giã”:
Mau với chứ, vội vàng lên với chứ,
Em em ơi, tình non sáp già rồi.
Con chim hồng, trái tim nhỏ của tôi,
Mau với chứ, thời gian không đứng đợi.
Vội vàng trở thành phương thức khắc phục giới hạn của thời gian, khắc phục bằng tốc độ sông mau lên, sông mau lên để tận hưởng được nhiều hơn.
Thi sĩ còn muôn khắc phục bằng cách dồn nén cường độ sống, muôn thu gom tất cả vẻ đẹp của cuộc đời trong một phút. Khao khát của nhà thơ thật nhiều, thật sôi nổi và mạnh mẽ trong nhịp điệu dồn dập của những dòng thơ bắt đầu bằng “ta muốn":
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !
Trong niềm khao khát ấy, thiên nhiên lại được hồi sinh với biết bao hình ảnh, âm thanh, hương sắc. Xuân Diệu ham sống, khát khao giao cảm với đời cho nên rất sợ khoảng cách. Ông muốn thu ngắn khoảng cách bằng vòng tay ôm, riết, muôn say, muốn hôn, muốn thâu. Và cuối cùng, tình yêu cuồng nhiệt dâng trào đến tột độ khi nhà thơ bật lên tiếng kêu đầy khao khát: “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !”.
Xuân vừa như một thứ trái chín ngon lành, vừa như một người tình căng đầy nhựa sông, đắm say, mơn mởn, rạo rực. Và tình yêu của Xuân Diệu mang đầy màu sắc nhục cảm mà cường tráng, lành mạnh.
Thái độ sông của Xuân Diệu là một thái độ sống tích cực của con người yêu đời, yêu tuổi trẻ, yêu mùa xuân. Trong lúc các nhà thơ lãng mạn thoát li thực tại bằng nhiều con đường, Chế Lan Viên chối bỏ mùa xuân để làm “một cánh chim thu lạc cuối ngàn”, Hàn Mặc Tử hướng hồn thơ điên lên thượng giới, Huy Cận ôm nỗi đau đời thoát ra ngoài cõi tục với niềm vui “vũ trụ ca”, Xuân Diệu vẫn gắn bó với cuộc sông trần thế. Đó là chỗ độc đáo và tích cực của thi sĩ. Nhà thơ đã dứt khoát và say sưa phát biểu thẳng những ước muôn riêng tư, những khát khao hưởng thụ của mình. Đến Xuân Diệu, “cái tôi” cá nhân ngang nhiên đòi hỏi được thoả mãn một cách tối đa những nhu cầu của cuộc sống, của tình cảm, cảm giác phức tạp và mãnh liệt.
“Vội vàng" là bài thơ tiêu biểu cho nhiều mặt của hồn thơ Xuân Diệu, một nhà Thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới. Bài thơ có giá trị nhân văn khiến cho người đọc biết yêu cuộc sống trần thế, biết tận hưởng hạnh phúc và biết quý trọng tuổi thanh xuân.
c. Tổng kết:
“Vội vàng” là lời giục giã hãy sống cao độ từng giây, từng phút tuổi xuân của mình giữa mùa xụân của cuộc đời, của vũ trụ; qua đó, thể hiện một quan niệm nhân sinh mới mẻ của một hồn thơ “yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt”. Tư tưởng đó được thể hiện qua giọng điệu thơ sôi nổi, nhịp thơ hăm hở và những hình ảnh táo bạo, đầy cảm giác.
ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề: Phân tích bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu để làm rõ nhận định: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian” (Thế * Lữ - Tựa tập “Thơ Thơ”).
BÀI VIẾT GỢl ý
Nhà thơ Thế Lữ, trong lời Tựa cho tập “Thơ Thờ” của Xuân Diệu, đã có nhận xét khá tinh tế: “Xuân Diệu là một người của đời, một người ở giữa loài người. Lầu thơ của ông xây dựng trên đất của một tấm lòng trần gian”. Đã hơn hai mươi năm Xuân Diệu giã từ chúng ta vào cõi hư vô, nhưng “tấm lòng trần gian” của ông dường như vẫn còn ở lại. Cứ mỗi lần xuân tới, những trái tim non trẻ của các thế hệ hoc sinh lại rung lên những cảm xúc mãnh liệt trước tâm tình của Xuân Diệu gửi gắm ỵới đời trong bài thơ “Vội vàng”, gắn với niềm khát khao giao cảm với đất trời, con người, niềm khát khao tràn đầy mê đắm của thi nhân, trong mùa xuân diệu kì !
Làm thơ xuân vốn là một truyền thông của thi ca Việt Nam, bao nét xuân đi vào thi ca đều mang một dấu ấn cảm xúc riêng. Đặc biệt, trong thơ lãng mạn Việt Nam 1932 - 1945, mùa xuân còn gắn với cái tôi cá nhân, cá thể giàu cảm xúc của các nhà Thơ mới. Có thể kể đến một Hàn Mặc Tử với “khách xa gặp lúc mùa xuân chín..”, một Nguyễn Bính với “mùa xuân là cả một mùa xanh.”. Nhưng có lẽ Xuân Diệu chính là người đã đem vào trong cảm xúc mùa xuân tất cả cái rạo rực đắm say của tình yêu. “Vội vàng” là lời tâm tình với mùa xuân của trái tim thơ tuổi hai mươi căng nhựa sông.
Bài thơ mở đầu bằng những ước muôn thật kì lạ:
Tôi muốn tắt nắng đi,
Cho màu đừng nhạt mất.
Tôi muốn buộc gió lại,
Cho hương đừng bay đi.
Con người ở giữa không gian của “nắng” và “hương” này thật lạ ! Anh ta có những ước muôn và đòi hỏi thật vô lí, muôn vượt ra khỏi quy luật bình thường của tạo hóa. Nhưng quy luật thời gian vẫn lạnh lùng nghiệt ngã, nắng vẫn chầm chậm trôi về cuối ngày, gió vẫn lang thang hoài không nghỉ, báo hiệu cho tàn phai và phôi pha sắp sửa bắt đầu. Xuất phát từ điểm nhìn của một cái tôi chủ quan, chẳng qua Xuân Diệu chỉ muốn diễn giải đầy đủ hơn sự có lí của tâm hồn: Giữ trọn vẹn hơn những vẻ đẹp cuộc đời, hưởng thụ tận cùng màu sắc và hương vị của sự sống.
Điều nhà thơ “muôn” trong một không gian ngập đầy nắng gió đã nói lên ý thức về thời gian trong tâm tưởng con người: Nỗi lo sợ trước viễn cảnh chia li, như có lần Xuân Diệu đã từng chứng kiến:
Đương lúc hoàng hôn xuống,
Là giờ viễn khách đi.
Nước đượm màu li biệt,
Trời vương hương biệt li.
(Viễn khách)
Ý niệm về thời gian ấy còn là nỗi lo sợ cho tương lai “Dời trôi chảy, lòng ta không vĩnh viễn” nên trái tim “giục giã” nhà thơ bày tỏ nỗi niềm tha thiết với mùa xuân.
Mùa xuân đến, trong sự mong đợi của nhà thơ, cùng với hương và sắc, làm bừng lên sức sông của không gian:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
Này đây hoa của đồng nội xanh rì.
Này đây lá của cành ta phơ phất,
Của yến anh này đây khúc tình si.
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa.
Chưa bao giờ, trong thi ca Việt Nam, mùa xuân lại hiện ra xôn xao như thế. Xuân không còn là bóng dáng mà đã hiện hình cụ thể đến từng chi tiết: vẻ đẹp ngọt ngào trong “tuần tháng mật” “của ong bướm", rực rỡ trong “hoa của đồng nội xanh rì”, mơn mởn trong “lá của cành tơ phơ phẩt”, mê đắm trong “khúc tình si” “của yến anh” và ngây ngất niềm vui “gõ cửa” cho mọi tâm hồn bừng lên “ánh sáng” ! Sức sông của mùa xuân làm vạn vật có linh hồn, quấn quýt giao cảm đến độ cuồng nhiệt. Bằng những tiếng “này đây” vồ vập, linh hoạt giữa những hàng thơ, tạo nên điệp khúc, Xuân Diệu háo hức như muôn sờ tận tay, chạm mặt mùa xuân. Bước chuyển của mùa xuân nhờ vậy cũng rõ rệt hơn, bay lên cùng cái náo nức rộn rã, mê mải trong lòng tác giả, nồng nàn và tinh tế.
Tuyệt đỉnh của mê say là một niềm hạnh phúc:
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Mùa xuân không còn riêng của đất trời vạn vật mà đã hoà vào hồn người. Mùa xuân đến với con người như một người yêu, góp hết sự sông của muôn loài lên “cặp môi gần” hiến dâng, đầy ham muôn của con người. Qua cách cảm của Xuân Diệu, cuối cùng cái đích của sự sông vẫn là con người, chuẩn mực của mọi vẻ đẹp cuộc sông vẫn là con người với tất cả khát khao về hạnh phúc. Hạnh phúc cùng mùa xuân, tận hưởng vị “ngon” của cả một không gian xuân, nhà thơ đã biểu lộ cảm xúc cực điểm của sự sung sướng. Niềm hạnh phúc trần thế ấy đồng nghĩa với sự sống !
Mùa xuân đem đến cho chàng trai Xuân Diệu một niềm ham sống và men say của tình yêu. Nhưng nhịp hoan ca bỗng khựng lại giữa chừng trong một câu thơ tách ra hai thái cực:
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Nhà thơ cắt nghĩa cái “vội vàng” ấy bằng những dự cảm của tâm hồn. Trước một niềm khoái lạc vô biên khiến con người như bồng bềnh chao đảo trong cảm giác ngất ngây, linh cảm về một cuộc chia li đã hiện hình rõ nét:
Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua,
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Những cái “nghĩa là” ấy gắn liền với triết lí về sự sống đã có tự ngàn xưa, không phải là một ý niệm mới mẻ. Cách Xuân Diệu một ngàn năm, trong thế giới của thơ Đường, ta đã gặp nỗi lòng của một Trần Tử Ngang trước vũ trụ bao la:
Ai người trước đã qua,
Ai người sau chưa lại.
Ngẫm trời đất thật vô cùng,
Riêng lòng đau mà lệ chảy.
(Bản dịch Đăng u Châu đài ca)
Suy tư ấy có liên quan đến thân phận con người: Cái hữu hạn của đời người - cái vô hạn của đất trời. Với Xuân Diệu, khi mùa xuân đồng nghĩa với tuổi trẻ, sự sông, tình yêu, gắn bó với cái tôi yêu đời của nhà thơ, thì chia li đồng nghĩa với cái chết.
Trong khi đồng nhất hoá mùa xuân với con người, Xuân Diệu đã sống đến tận cùng cảm giác, yêu đến tận cùng mê say và gửi cả vào mùa xuân khát vọng của một tâm hồn muôn vươn tới cõi vô biên. Nhưng khi ý thức về thời gian đi liền với tàn phai và hủy diệt, nhà thơ đã cảm nhận sâu sắc bi kịch của con người phải chịu sự chi phối của quy luật khách quan. Đó cũng là nỗi niềm chung của con người khi chôn vùi tuổi trẻ trong một cuộc sông đã mất ý nghĩa. “Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại - Mảnh tình san sẻ tí con con”, Hồ Xuân Hương đã chẳng từng than thở đó sao? Điều đặc biệt là Xuân Diệu không thu gọn cảm xúc trong nỗi niềm ngao ngán cho riêng bản thân. Thi nhân đã dành hẳn một niềm “băng khuâng”, “tiếc cả đất trời” để làm nên một cuộc chia li bi tráng với mùa xuân:
Mùi tháng năm đểu rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi.
Chim vội vàng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi ! Chẳng bao giờ nữa...
Những cuộc chia li nổi tiếng trong lịch sử vãn chương cổ kim có lẽ cũng chỉ bùi ngùi đến vậy. Nước sông Dịch lạnh theo nỗi niềm thái tử Đan đưa tiễn Kinh Kha sang sông hành thích bạo chúa, người chinh phụ đưa chồng ra chiến trận “nhủ rồi nhủ lại cầm tay- bước đi một bước giây giây lại dừng” {.Chinh phụ ngâm), tất cả đều cảm động, lưu luyến nhưng đó là cảnh chia li giữa người với người. Tản Đà mượn lời “thề non nước”, “tống biệt”, “cảm thu, tiễn thu” cũng chỉ là mượn cảnh nói người, cảm xúc man mác lặng lẽ. Còn Xuân Diệu đã diễn tả đầy đủ đến từng chi tiết cụ thể không khí của cuộc chia li, từ thời gian “tháng năm”, không gian “sông núi” đến “cơn gió xinh” hờn tủi, chim “đứt tiếng”... Cảm quan lãng mạn cùng hoà với suy tư về bản thân đã khắc hoạ độc đáo cảm giác tinh tế của nhà thơ. Khung cảnh “rớm vị chia phôi” như san sẻ nỗi niềm của thi nhân, bật thành tiếng than não nuột “chẳng bao giờ, ôi, chẳng bao giờ nữa", tiếc thương cho vẻ đẹp mùa xuân, tuổi trẻ, sự sống một đi không trở lại.
Từ cảnh “trong gặp gỡ đã có mầm li biệt" này, trước nỗi lo âu, linh cảm về sự tàn phai cùng dòng chảy thời gian, có một giao điểm hội tụ tình cảm và lí trí của nhà thơ, trở thành một niềm thôi thúc cháy bỏng:
Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm.
Đó là lời kêu gọi của tình yêu, của dam mê và khát khao vựợt ra thực tại đáng buồn để tìm đến mùa xuân. Chính vào lúc tưởng như rợn ngợp trong sự hoang mang, nhà thơ đã vượt lên để thể hiện rõ chất Người cao đẹp - tìm về ý nghĩa của sự sống.
Không quay về quá khứ để hoài niệm, không tìm kiếm một ngày mai vô vọng, con người ở đây sông cùng thực tại mãnh liệt, dường như cùng với các động tác vội vàng, cuông quýt kia là sự cuồng nhiệt với đời:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nè thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !
Tưởng chừng những cái “ta muốn” là sự lặp lại cảm xúc đầu bài thơ. Nhưng đi liền với các cảm giác và hành động ôm, riết, say, thâu, hôn, chuếnh choáng, đã đầy, no nê, cắn, cảm xúc đã phát triển đầy đủ, trẻ trung trong trạng thái ngây ngất. Từ thái độ ban đầu còn có chút e dè đến thái độ vồ vập vội vàng, có chút tham lam là cả một sự chuyển hướng của suy tư. Xuân Diệu không chờ đợi mà muôn chiếm lĩnh sự sống, thâu vào đầy đủ vẻ đẹp cuộc sống, sông thành thật với chính mình, sông hết mình.
Thái độ sống ấy đã được nhà thơ tuân thủ suốt cuộc đời mình và ông đã tìm ra ý nghĩa của sự sống trước ranh giới của mất mát, tàn phai và cái chết, chiến thắng nỗi sợ hãi hư vô. Khát khao được sông, được yêu, được giao cảm cùng vũ trụ và cuộc đời, Xuân Diệu đã chiến thắng thời gian, vẫn vẹn nguyên sức sông dồi dào của tuổi hai mươi:
Trong hơi thở chót dâng trời đất,
Củng vẫn si tình đến ngất ngư.
{Không đề - 1983)
Bài thơ “Vội vàng” đã thể hiện tinh tế nhũng giác quan bén nhạy của hồn thơ Xuân Diệu trước mùa xuân, gắn với quan niệm sông của ông về ý nghĩa sự sông đời người. Con Người, với những tính cách và cảm xúc độc đáo hiện diện trong từng câu chữ, mang nét đặc trưng của cảm quan lãng mạn. Bài thơ còn đưa ra một quan niệm sông tích cực: phải biết tận hưởng vẻ đẹp cuộc đời. Hiểu một cách đúng đắn quan niệm này có nghĩa là mỗi người cần phải sống hết mình với cuộc sông hôm nay, sôi nổi chân thành và thiết tha với đời. Chính vẻ đẹp của con người sẽ làm nên vẻ đẹp bất tử cho cuộc đời. Lời nhắn nhủ trong “Vội vàng” cũng là tâm niệm suôi đời của nhà thơ, đã làm ta hiểu hơn về “tấm lòng trần gian” của một người thơ yêu đời mê đắm.
TƯ LIỆU THAM KHẢO
“VỘI VÀNG” CỦA XUÂN DIỆU
1. Cái động thái bộc lộ đầy đủ nhất thần thái Xuân Diệu có lẽ là “vội vàng”. Ngay từ hồi viết “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh đã thấy "Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt". Cho nên, đặt cho bài thơ rất đặc trưng của mình cái tựa đề “Vộị vàng”, hẳn đó phải là một cách tự bạch, tự hoạ của Xuân Diệu. Nó cho thấy thi sĩ rất hiểu mình.
Thực ra, cái điệu sông vội vàng, cuông quýt của Xuân Diệu bắt nguồn sâu xa từ ý thức về thời gian, về sự ngắn ngủi của kiếp người, về cái chết như là kết cục không thể tránh khỏi mai hậu. Sông là cả một hạnh phúc lớn lao kì diệu. Mà sông là phải tận hưởng và tận hiến ! Đời người là ngắn ngủi, cần tranh thủ sông. Sống hết mình, sống đã đầy. Thế nên phải chớp lấy từng khoảnh khắc, phải chạy đua với thời gian. Ý thức ấy luôn giục giã, gấp gáp. Bài thơ này được viết ra từ cảm niệm triết học ấy.
Thông thường, yếu tố chính luận đi cùng thơ rất khó nhuần nhuyễn. Nhất là lối thơ nghiêng về cảm xúc rất "ngại" cặp kè với chính luận. Thế nhưng, nhu cầu phô bày tư tưởng, nhu cầu lập thuyết lại không thể không dùng đến chính luận. Thơ Xuân Diệu hiển nhiên thuộc loại thơ cảm xúc. Nhưng đọc kĩ sẽ thấy thơ Xuân Diệu cũng rất giàu chính luận. Nếu như cảm xúc làm nên cái nội dung hình ảnh, hình tượng sống động như mây trôi, nước chảy trên bề mặt của văn bản thơ, thì dường như yếu tô' chính luận lại ẩn mình, lặn xuống bề sâu, làm nên câu tứ của thi phẩm. Cho nên mạch thơ luôn có được vẻ tự nhiên, nhuần nhị. “Vội vàng" cũng thế. Nó là một dòng cảm xúc dào dạt, bồng bột có lúc đã thực sự là một cơn lũ cảm xúc, cuốn theo bao nhiêu hình ảnh thi ca như gấm, như thêu của cảnh sắc trần gian. Nhưng nó cũng là một bản tuyên ngôn bằng thơ, trình bày cả một quan niệm nhân sinh về lẽ sống vội vàng. Có lẽ không phải thơ đang minh hoạ cho triết học. Mà đó chính là cảm niệm triết học của một hồn thơ.
Mục đích lập thuyết, dạng thức tuyên ngôn đã quyết định đến bô' cục của “Vội vàng”. Thi phẩm khá dài, nhưng tự nó đã hình thành hai phần khá rõ rệt. Cái cột mốc ranh giới giữa hai phần đặt vào ba chữ "Ta muốn ôm". Phần trên nghiêng về luận giải cái lí do vì sao cần sôhg vội vàng. Phần dưới là bộc lộ trực tiếp cái hành động vội vàng ấy. Nói một cách vui vẻ: trên là lí thuyết, dưới là thực hành ! Điều dễ thấy là thi sĩ có dụng ý chọn cách xưng hô cho từng phần. Trên, xưng "tôi" - lập thuyết, đô'i thoại với đồng loại. Dưới, xưng "to" - đô'i diện với sự sông. Trình tự luận lí có xu hướng cắt xẻ bài thơ. Nhưng hơi thơ bồng bột, giọng thơ ào ạt, sôi nổi như thác cuốn đã xoá mọi cách ngán, khiến thi phẩm vẫn luôn là một chỉnh thể sông động, tươi tắn và truyền cảm.
Mở đầu bài thơ là một khổ ngũ ngôn thể hiện một ước muôn kì lạ của thi sĩ, ấy là ước muôn quay ngược quy luật tự nhiên - một ước muôn không thể:
Tôi muốn tắt nắng đi,
Cho màu đừng nhạt mất.
Tôi muốn buộc gió lại,
Cho hương đừng bay đi.
Muôn "tắt nắng”, muôn "buộc gió" thật là những ham muôn kì dị, chỉ có ở thi sĩ. Nhưng làm sao cưỡng được quy luật, làm sao có thể vĩnh viễn hoá được những thứ vốn ngắn ngủi mong manh ấy? Cái ham muôn lạ lùng kia đã hé mở cho chúng ta một lòng yêu bồng bột vô bờ với cái thế giới thắm sắc, đượm hương này.
Thế giới này được Xuân Diệu cảm nhận theo một cách riêng. Nó bày ra như một thiên đường trên mặt đất, như một bữa tiệc lớn của trần gian. Được cảm nhận bằng cả sự tinh vi nhất của một hồn yêu đầy ham muôn, nên sự sông cũng hiện ra như một thế giới đầy xuân tình. Cái thiên đường đầy sắc hương đó hiện diện trong “Vội vàng" vừa như một mảnh vườn tình ái, vạn vật đang lúc lên hương, vừa như một mâm tiệc với một thực đơn quyến rũ, lại vừa như một người tình đầy khêu gợi. Xuân Diệu cũng hưởng thụ theo một cách riêng, ấy là hưởng thụ thiên nhiên như hưởng thụ ái tình. Yêu thiên nhiên mà thực chất là tình tự với thiên nhiên.
Hãy xem cách diễn tả vồ vập về một thiên nhiên ở thì xuân sắc, một thiên nhiên rạo rực xuân tình:
Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
Này đây hoa của đồng nội xanh rỉ.
Này đây lá của cành ta phơ phất,
Của yến anh này đây khúc tình si.
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi sáng sớm thần Vui hằng gõ cửa.
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
Có lẽ trước Xuân Diệu, trong thơ Việt Nam chưa có cảm giác "Tháng giêng ngon như một cặp môi gần". Nó là cảm giác của ái ân tình tự. Cảm giác ấy đã làm cho người ta thấy tháng giêng mơn mởn tơ non đầy một sức sống thanh tân kia sao mà quyến rũ - tháng giêng mang trong nó sức quyến rũ không thể cưỡng được của một người tình rạo rực, trinh nguyên.
Hai mảng thơ đầu kế tiếp nhau đã được liên kết bằng cái logic luận lí ngầm của nó. Thi sĩ muốn "tắt nắng", mucin “buộc gió" chính vì muốh giữ mãi hương sắc cho một trần thế như thế này đây. Hương sắc là cái sinh khí của nó, là vẻ đẹp, là cái nhan sắc của nó. Tất cả chỉ rực rỡ trong độ xuân thỉ. Mà xuân lại vô cùng ngắn ngủi. Và thế là mảng thơ thứ ba của phần luận giải đã hình thành để nói về cái ngắn ngủi đến tàn nhẫn của xuân thì trong sự sống và cái xuân thì của con người. Phải, cái thế giới này lộng lẫy nhất, "ngon" nhất là ở độ xuân; còn con người cũng chỉ hưởng thụ được cái "ngon" kia khi còn trẻ thôi. Trong khi đó, cả hai đều vô cùng ngắn ngủi, thời gian sẽ cướp đi hết thảy. Có lẽ cũng lần đầu tiên, thơ ca Việt Nam có được cái quan niệm này:
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già,
Con người thời trung đại lấy sinh mệnh vũ trụ để đo đếm thời gian. Nên hình như họ yên trí với quan niệm thời gian tuần hoàn, với cái chu kì bôn mùa, cũng như cái chu kì ba vạn sáu nghìn ngày của kiếp người. Hết một vòng, thời gian lại quay về điểm xuất phát ban đầu. Con người hiện đại lấy sinh mệnh cá thể làm thước đo thời gian. Nên họ sống với quan niệm thời gian tuyến tính. Thời gian như một dòng chảy vô thủy, vô chung mà mỗi một khoảnh khắc qua đi là mất đi vĩnh viễn. Cho nên Xuân Diệu đã nồng nhiệt phủ định:
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại !
Không chỉ dùng sinh mệnh cá thể, Xuân Diệu còn đo đếm thời gian bằng cái quãng ngắn ngủi nhất của sinh mệnh cá thể: tuổi trẻ. Tuổi trẻ đã một đi không trở lại thì làm chi có sự tuần hoàn.
Trong cái mênh mông của đất trời, cái vô tận của thời gian, sự có mặt của con người quá ư ngắn ngủi, hữu hạn. Nghĩ về tính hạn chế của kiếp người, Xuân Diệu đã đem đến một nỗi ngậm ngùi thật mới mẻ:
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời.
Không chỉ quan niệm, mà ngay cả cảm giác cũng hết sức mới lạ. Xuân Diệu đã đem đến một cảm nhận đầy tính "lạ hoa về thời gian và không gian:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt...
Là người đã tiếp thu ở mức nhuần nhuyễn phép "tương giao" (Correspondance) của lối thơ tượng trưng, Xuân Diệu đã phát huy triệt để sự tương giao về cảm giác để cảm nhận và mô tả thế giới, trước hết là thời gian và không gian. Có những câu the mà cảm giác được liên tục chuyển qua các kênh khác nhau. Thời gian được cảm nhận bằng khứu giác: "Mùi tháng năm" - thời gian của Xuân Diệu được làm bằng hương - chẳng thế mà thi sĩ cứ muôn "buộc gió lại" ư - hương bay đi là thời gian trôi mất, là phai lạt phôi pha ! Một chữ "rớm" cho thấy khứu giác đã chuyển thành thị giác. Nó nhắc ta nhớ đến hình ảnh giọt lệ. Chữ "vị" liền đó, lại cho thấy cảm giác thơ đã chuyển qua vị giác. Và đây là một thứ vị hoàn toàn phi vật chất: "vị chia phôi" ! Thì ra chữ "rớm" và chữ "vị" đều từ một hình ảnh ẩn hiện trong cả câu thơ là giọt lệ chia phôi đó. Giọt lệ thường lòng lanh trên khoé mắt người trong giờ phút chia phôi. Giọt lệ thành hiện thân, biểu tượng của chia phôi. Vì sao thời gian lại mang hương vị - hình thể của chia phôi? Ây là những cảm giác chân thực hay chỉ là trò diễn của ngôn ngữ theo kịch bản của phép "tương giao"? Thực ra cái tinh tế của Xuân Diệu là ở chỗ này đây. Thi sĩ cảm thấy thật hiển hiện mỗi khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ thật sự là một cuộc ra đi vĩnh viễn. Trên mỗi thời khắc đều đang có một cuộc ra đi như thế, thời gian đang chia tay với con người, chia tay với không gian và với cả chính thời gian. Tựa như một phần đời của mỗi cá thể đang vĩnh viễn ra đi. Từng phần đời đang chia lìa với cá thể. Cho nên thi sĩ nghe thấy một lời than luôn âm vang khắp núi sông này, một lời than triền miên bất tận: "Than thầm tiễn biệt". Không gian đang tiễn biệt thời gian ! Và thời gian trôi đi sẽ khiến cho cái nhan sắc thiên nhiên diệu kì này bước vào độ tàn phai. Một sự tàn phai không thể nào tránh khỏi!
Và, một điều rất đáng nói đã bộc lộ đây đó trong thi phẩm này là do dùng tuổi trẻ để đo đếm thời gian, nên ở Xuân Diệu đã xuất hiện một ý niệm thời gian khá đặc biệt, đó là thì sắc. Thời gian được nhìn ở phía nhan sắc, gắn với nhan sắc của sự vật. Vì thế mà với hồn thơ này, thời gian, về thực chất không có ba thì phân lập rành rẽ với quá khứ - hiện tại - tương lai, mà chỉ có hai thì luôn tranh chấp và chuyển hoá thôi, đó là thời tươi và thời phai. Nó khồng phải là hai mùa. Không phải Xuân Diệu lược quy bốn mùa vào hai mùa. Mà là hai thì của mỗi một tạo vật thiên nhiên. Thời tươi', vạn vật thắm sắc; thời phai-, vạn vật phôi pha, phai lạt. Vật nào trong trần thế này cũng trải quá hai thì ấy. Tất cả những ý niệm thời gian khác như năm tháng, mùa vụ, phút giây... dường như đều tan trong cái ý niệm thì sắc tổng quát đó. Mà ta thấy ở đây, nó hiện diện trong sự đối lập của "độ phai tàn" (thời phai) và thời tươi'.
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa.
Cho no nê thanh sắc của thời tươi.
Có thể nói ý niệm thì sắc này đã chi phối toàn bộ nhỡn quan Xuân Diệu đối với việc cảm nhận vẻ đẹp của thế giới trong sự trôi chảy vô thủy vô chung của nó.
Thế đấy, không thể buộc gió, không thể tắt nắng, không thể cầm giữ được thời gian, thì chỉ có một cách thực tế nhất, khả thi nhất là chạy đua với thời gian, là tranh thủ sông:
Chẳng bao giờ, ôi ! Chẳng bao giờ nữa...
Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm.
Đến đây, phần luận giải cuả tuyên ngôn “Vội vàng" đã đủ đầy luận lí !
* Phần cuối của bài thơ là lúc tuyên ngôn được hiện ra thành hành động, ấy là “vội vàng" trong hình thái sông của cái tôi cá nhân, cá thể này. Bài thơ được kết thúc bằng những cảm xúc mãnh liệt, bằng những ham muôn mỗi lúc mỗi cuồng nhiệt, vồ vập. Đó là cả một cuộc tình tự với thiên nhiên, ái ân cùng sự sống. Chỉ có thể diễn tả như thế, Xuân Diệu mới phô diễn được cái lòng ham sống, khát sống trào cuốn của mình:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
• Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !
Nếu chọn một đoạn thơ trong đó cái giọng sôi nổi, bồng bột của Xuân Diệu thể hiện đầy đủ nhất, thì đó phải là đoạn thơ này. Ta có thể nghe thấy giọng nói, nghe thấy cả nhịp đập của con tim Xuân Diệu trong đoạn thơ ấy. Nó hiện ra trong những làn sóng ngôn từ đan chéo nhau, giao thoa, song song, thành những đợt sóng vỗ mãi vào tâm hồn người đọc. Câu thơ “Ta muốn ôm” chỉ có ba chữ, lại được đặt ở vị trí đặc biệt: chính giữa hàng thơ, là hoàn toàn có dụng ý. Xuân Diệu muôn tạo ra hình ảnh một cái tôi đầy ham hố, đang đứng giữa trần gian, dang rộng vòng tay, nới rộng tầm tay để ôm cho hết, cho khắp, gom cho nhiều nữa, nhiều nữa, mọi cảnh sắc mơn mởn trinh nguyên của trần thế này vào lòng ham muốn vô biên của nó. Cái điệp ngữ "Ta muốn" được lặp đi lặp lại với mật độ thật dày và cũng thật đích đáng. Nhất là mỗi lần điệp lại đi liền với một động thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, mãnh liệt, nồng nàn: ôm - riết - say - thâu - cắn. Có thể nói, câu thơ "Và non nước, và cây, và cỏ rạng" là không thể có đốì với thi pháp trung đại vốn coi trọng những chữ đúc. Thậm chí, đốì với người xưa, đó sẽ là câu thơ vụng. Tại sao lại thừa thãi liên từ "và" đến thế? Vậy mà, đó lại là sáng tạo của nhà thơ hiện đại Xuân Diệu. Những chữ "và" hiện diện cần cho sự thể hiện nguyên trạng cái giọng nói, cái khẩu khí của thi sĩ. Nó thể hiện đậm nét sắc thái riêng của cái tôi Xuân Diệu. Nghĩa là thể hiện một cách trực tiếp, tươi sông cái cảm xúc ham hô', tham lam đang trào lên mãnh liệt trong lồng ngực yêu đời của thi sĩ !
Câu thơ:
Cho chuếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
cũng tràn đầy những làn sóng ngôn từ như vậy. Từ "cho" điệp lại với nhịp độ tăng tiến, nhấn mạnh các động thái hưởng thụ thoả thuê: chuếnh choáng - đã đầy - no nê. Sóng cứ càng lúc càng tràn dâng, cao hơn, vỗ mạnh hơn, đẩy cảm xúc lên tột đỉnh:
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !
Ta thấy Xuân Diệu như một con ong hút nhụy đã no nê đang lảo đảo bay đi. Lại thấy thi sĩ như một tình lang trong một cuộc tình chuếnh choáng men say.
Sông là hạnh phúc. Muôn đạt tới hạnh phúc, phải sống vội vàng. Thế là, “Vội vàng” chính là cách duy nhất để đến với hạnh phúc, là chính hạnh phúc và dường như cũng là cái giá trả cho hạnh phúc vậy ! Xuân Diệu quả đã mang trong mình nguồn sống trẻ. Xuân Diệu là thi sĩ của nguồn sống trẻ. Ta hiểu vì sao, khi Xuân Diệu xuất hiện, lập tức thi sĩ đã thuộc về tuổi trẻ !
Theo Chu Văn Sơn