Soạn bài Từ ấy

  • Từ ấy trang 1
  • Từ ấy trang 2
  • Từ ấy trang 3
  • Từ ấy trang 4
  • Từ ấy trang 5
  • Từ ấy trang 6
TỪ ẤY TỐ Hữu
KIẾN THỨC Cơ BẢN A. Giới thiệu
1. Tố Hữu (1920 - 2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế.
Thuở nhỏ Tô" Hữu học trường Quốc học Huế, năm 1938, ông được kết nạp vào Bảng Cộng sản Đông Dương.
Cách mạng tháng Tám năm 1945, Tô' Hữu là Chủ tịch úy ban khởi nghĩa ở Huế.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ và cho đến nãm 1986, Tô' Hữu liên tục giữ những cương vị trọng yếu trong bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước (từng là ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng).
ở Tô' Hữu, sự nghiệp thơ ca gắn liền với sự nghiệp cách mạng. Thơ ông luôn gắn bó và phản ánh chân thật những chặng đường cách mạng đầy gian khổ, hi sinh nhưng cũng nhiều thắng lợi vinh quang của dân tộc Việt Nam. Năm tập thơ: “Từ ấy” (1937 - 1946), “Việt Bắc” (1947 - 1954), “Gió lộng”
J (1955 - 1961), “Ra trận” (1962 - 1971), “Máu và hoa” (1972 - 1977) cho thay đặc điểm nổi bật của phong cách thơ Tô' Hữu là mang tính trữ tình chính trị về cả nội dung và đậm đà tính dân tộc trong nghệ thuật biểu hiện.
Thơ Tô' Hữu từ 1978 trở lại đây được tập hợp trong hai tập “Một tiếng đờrì’ (1992), “Ta với ta” (1999). Tô' Hữu được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
Bài thơ “Từ ấy” nằm trong phần “Máu lửa” của tập thơ “Từ ấy” (tập thơ gồm ba phần: ‘Máu lửa”, “Xiềng xích”, “Giải phóng”Ỵ
Bài thơ “Từ ấy” có ý nghĩa mở đầu cho con đường cách mạng, con đường thơ Tô' Hữu, nó là tuyên ngôn về lẽ sống của một người chiến sĩ cách mạng, cũng là tuyên ngôn nghệ thuật của một nhà thơ. Từ đó cho đến khi “tạm biệt đời yêu quý nhất”, Tố Hữu đã sông và sáng tác theo đúng định hướng ấy của bài thơ.
Tô' Hữu được giác ngộ và bắt đầu hoạt động cách mạng vào năm 1937. Tháng 7-1938 là thời điểm Tô' Hữu được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương, “Từ ấy” chính là cái mốc đánh dấu thời điểm đó. Sau này, trong bài “Câu chuyện về tha”, Tô' Hữu viết: “Từ ấy là một tâm hồn trong trẻo của tuổi mười tám, đôi mươi, đi theo lí tưởng cao đẹp, dám sông, dám đấu tranh”.
B. Đọc - Hiểu văn bản
Bài thơ gồm ba khổ.
Khổ đầu diễn tả niềm say mê khi gặp lí tưởng của Đảng
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ,
Mặt trời chân lí chói qua tim.
Hồn tôi là một vườn hoa lá,
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
Hai câu đầu được viết theo bút pháp tự sự, nhà thơ kể lại một kỉ niệm không quên của đời mình. “Từ ấy” là cái mốc thời gian có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời cách mạng và đời thơ của Tố Hữu, khi đó nhà thơ mới 18 tuổi hoạt động rất tích cực trong Đoàn Thanh niên Cộng sản Huế, được giác ngộ lí tưởng cộng sản, được kết nạp vào Đảng. Bằng những hình ảnh ẩn dụ nắng hạ, mặt trời chân lí, chói qua tim, Tô' Hữu khẳng định lí tưởng cách mạng như một nguồn sáng mới làm bừng sáng tâm hồn nhà thơ. Nguồn sáng ấy không phải là ánh thu vàng nhẹ, hay ánh xuân dịu dàng, mà là ánh sáng rực rỡ của một ngày nắng hạ. Hơn thế, nguồn sáng ấy còn là mặt trời, là mặt trời khác thường, mặt trời chân lí - một sự liên kết sáng tạo giữa hình ảnh và ngữ nghĩa: Nếu mặt trời của đời thường tỏa ánh sáng, hơi ấm và sức sông thì Đảng cũng là nguồn sáng kì diệu tỏa ra những tư tưởng đúng đắn, hợp lẽ phải, báo hiệu những điều tô't lành cho cuộc sông. Nhìn chung, cách gọi lí tưởng như vậy thể hiện thái độ thành kính, ân tình. Thêm nữa, những động từ bừng (chỉ ánh sáng phát ra đột ngột), chói (ánh sáng có sức xuyên mạnh) càng nhấn mạnh ánh sáng của lí tưởng đã hoàn toàn xua tan màn sương mù của ý thức tiểu tư sản và mở ra trong tâm hồn nhà thơ một chân trời mới của nhận thức, tư tưởng và tình cảm.
ở hai câu sau, bút pháp trữ tình lãng mạn cùng với những hình ảnh so sánh đã diễn tả cụ thể niềm vui sướng vô hạn của nhà thơ trong buổi đầu đến với lí tưởng cộng sản. Đó là một thê' giới tràn đầy sức sông với hương sắc
của các loài hoa, vẻ tươi xanh của cây lá, âm thanh rộn rã của tiếng chim ca hót. Đối với khu vườn hoa lá ấy còn gì đáng quý hơn ánh sáng mặt trời? Đối với tâm hồn người thanh niên đang băn khoăn, đi kiếm lẽ yêu đời, còn gì đáng quý hơn khi có một li tưởng cao đẹp soi sáng, dẫn dắt? Tóm lại, Tô" Hữu đón nhận lí tưởng như cỏ cây hoa lá đón nhận ánh sáng mặt trời, chính lí tưởng cộng sản đã làm tâm hồn người tràn đầy sức sông và niềm yêu đời làm cho cuộc sông con người có ý nghĩa hơn.
Nhưng Tô" Hữu còn là một nhà thơ nên vẻ đẹp và sức sông mới ấy của một tâm hồn cũng là vẻ đẹp và sức sông mới của hồn thơ. Cách mạng không đô"i lập với nghệ thuật, trái lại, đã khơi dậy một sức sông mới, đem lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ.
2. Khổ hai biểu hiện những nhận thức mới về lẽ sống
Tôi buộc lòng tôi với mọi người,
Để tình trang trải với trăm nơi.
Để hồn tôi với bao hồn khổ,
Gần gũi nhau thềm mạnh khối đời.
Trong quan niệm về lẽ sống, giai cấp tư sản và tiểu tư sản có phần đề cao “cái tôi” cá nhân chủ nghĩa. Khi được giác ngộ lí tưởng, Tô" Hữu khẳng định quan niệm mới về lẽ sông là sự gắn bó hài hòa giữa “cái tôi” cá nhân và “cái ta” chung của mọi người. Với động từ buộc, câu 1 là một cách nói quá thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tô" Hữu muôn vượt qua giới hạn của “cái tôi” cá nhân để sông chan hoà với mọi người (trăm nơi là một hoán dụ chỉ mọi người sông ở khắp nơi). Với từ trang trải ở câu 2 có thể liên tưởng tâm hồn nhà thơ trải rộng với cuộc đời, tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể.
Hai câu thơ sau cho thấy tình yêu thương con người của Tô" Hữu không phải là thứ tình thương chung chung mà là tình cảm hữu ái giai cấp. Câu 3 khẳng định trong mối liên hệ với mọi người nói chung, nhà thơ đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ. Ớ câu 4, khối đời là một ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung cảnh ngộ trong cuộc đời, đoàn kết chặt chẽ với nhau cùng phấn đấu vì một mục tiêu chung. Có thể hiểu: khi “cái tôi” chan hòa trong “cái ta”, khi cá nhân hòa mình vằo một tập thể cùng lí tưởng thì sức mạnh của mỗi người sẽ được nhân lên gấp bội.
Tóm lại, Tô" Hữu đã dặt mình giữa dòng đời và trong môi trường rộng lớn của quần chúng lao khổ, ở đấy Tô" Hữu đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới không chỉ bằng nhận thức mà còn bằng tình cảm yêu mến, bằng sự giao cảm của những trái tim. Qua đó, Tô" Hữu cũng khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sông của quần chúng nhân dân.
Khổ ba cho thấy sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của Tố Hữu
Tôi đã là con của vạn nhà,
Là em của vạn kiếp phôi pha.
Là anh của vạn đầu em nhỏ,
Không áo cơm, cù bất cù bơ.
Trước khi được giác ngộ lí tưởng, Tô' Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Lí tưởng cộng sản không chỉ giúp nhà thơ có được lẽ sông mới mà còn giúp nhà thơ vượt qua tình cảm ích kỉ, hẹp hòi của giai cấp tiểu tư sản để có được tình hữu ái giai cấp với quần chúng lao khổ. Hơn thế, đó còn là tình thân yêu ruột thịt. Những điệp từ là cùng với các từ con, em, anh và số từ ước lệ vạn (chỉ sô' lượng hết sức đông đảo) nhấn mạnh, khẳng định một tình cảm gia đình thật đầm ấm, thân thiết, cho thấy nhà thơ đã cảm nhận sâu sắc bản thần mình là thành viên của đại gia đình quần chúng lao khổ. Tấm lòng đồng cảm, xót thương còn biểu hiện thật xúc động, chân thành khi nói tới những kiếp phôi pha (những người đau khổ, bất hạnh, những người lao động vất vả), những em nhỏ không áo cơm cù bất cù bơ (những em bé không nơi nương tựa phải lang thang vất vưởng, nay đây mai đó). Qua những lời thơ ấy cũng có thể thây được lòng căm giận của nhà thơ trước bao bất công, ngang trái của cuộc đời cũ. Chính vì những kiếp người phôi pha, những em bé cù bất cù bơ ấy mà người thanh niên Tô' Hữu hăng say hoạt động cách mạng, và họ cũng chính là đối tượng sáng tác chủ yếu của nhà thơ Tô' Hữu (cô gái giang hồ trong Tiếng hát sông Hương, chú bé đi ở trong Đi đi em, ông lão khô'n khổ trong Lão đầy tớ...).
Đến đây có thể thấy, về quan điểm nhận thức và sáng tác, bài thơ là tuyên ngôn cho tập “Từ ấy” nói riêng và cho toàn bộ tác phẩm của Tô' Hữu nói chung. Đó là quan điểm của giai cấp vô sản với nội dung quan trọng là nhận thức sâu sắc về mối liên hệ giữa cá nhân với quần chúng lao khổ, với nhân loại cần lao.
c. Tổng kết:
Bài thơ “Từ ấy” là tâm niệm của một người thanh niên yêu nước giác ngộ lí tưởng cách mạng. Nó thể hiện niềm vui sướng, say mê mãnh liệt, những nhận thức và tình cảm mới của Tố Hữu khi có ánh sáng lí tưởng cách mạng soi rọi. Sự vận động ấy của tâm trạng nhà thơ được thể hiện bằng những hình ảnh tươi sáng, rực rã; các biện pháp tu từ và ngôn ngữ giàu nhạc điệu. II. ĐỀ VÀN LUYỆN TẬP
Dề: Cảm nhận về bài thơ “Từ ấy” của Tô' Hữu.
BÀI VIẾT GỢI ý
Tô' Hữu có vị trí vẻ vang trong lịch sử thơ ca Việt Nam hiện đại. Ông thường nói đến những vấn đề chính trị lớn lao của đất nước với cảm xúc nồng thắm và đậm đà màu sắc dân tộc. Thơ Tố Hữu được nhiều thế hệ độc giả trân trọng, yêu quý.
“Từ ấy” là tập thơ đầu tay của Tô' Hữu, đồng thời cũng là tập thơ nổi bật của thơ ca cách mạng giại đoạn 1930 - 1945. Trong tập thơ trên, bài “Từ ấy” có thể coi là bài tiêu biểu nhất. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả lấy tên bài thơ này làm tựa đề cho tập thơ gồm những sáng tác trong suốt mười năm (1937 - 1946). Như nhiều người đã biết, tháng 7 - 1938, chàng thanh niên Nguyễn Kim Thành (tên thật của Tô' Hữu) 18 tuổi hoạt động rất tích cực trong phong trào Đoàn Thanh niên Cộng sản Huê' được vinh dự kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Và cũng trong tháng 7 - 1938 đầy ý nghĩa này, Tô' Hữu đã viết bài “Từ ấy” nổi tiếng. Hai mươi lãm năm sau (1963), trong “Câu chuyện về thớ” đãng trên Tạp chí Vãn học, chính Tô' Hữu đã khẳng định bài thơ “Từ ấy” nói riêng và tập thơ cùng tên nói chung “thể hiện niềm vui sướng vô cùng khi cảm thấy ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin soi rọi vào tâm hồn tươi trẻ”. Trong nền thơ ca hiện đại của chúng ta, thật hiếm có cây bút nào viết về lí tưởng, về lẽ sống với cảm xúc tràn đầy, sâu sắc và hấp dẫn như Tô' Hữu viết bài “Từ ấy”.
Khổ thứ nhất của bài thơ chính là sự kết tinh nghệ thuật và nội dung tư tưởng của toàn bài:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ,
Mặt trời chân lí chói qua tim.
Hồn tôi là một vườn hoa lá,
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
“Từ ấy” là cái mốc thời gian có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ ca của Tô' Hữu. “Từ ấy” có sự chuyển biến đột ngột, làm tâm hồn nhà thơ bỗng bừng lên một thứ ánh sáng mạnh mẽ, rực rỡ của nắng hạ, chứ không phải nắng thu hoặc nắng xuân; bởi có mặt trời chân lí chói qua tim. Hình ảnh mặt trời và ánh nắng (ánh sáng) thường đi kèm nhau như những biểu tượng của niềm vui và sự sông.
“Mặt trời chân lí” chính là một hình ảnh ẩn dụ có ý nghĩa tượng trưng cho lí tưởng của Đảng. Lí tưởng của Đảng là chân lí, là ánh sáng. Nó sẽ quét sạch mây mù đêm tô'i, đưa dân tộc tới ngày mai tươi sáng. Khi có lí tưởng, nhà thơ - người cộng sản trẻ tuổi cảm thấy tâm hồn mình như một vườn hoa lá ngào ngạt hương thơm, rộn rã tiếng chim ca, và chan hòa ánh nắng. Đôĩ với vườn hoa lá, còn gì quý hơn là ánh sáng mặt trời? Đối với người thanh niên đang “bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước”, đã từng tự hỏi “chọn một dòng hay để nước trôi?", còn gì đáng quý hơn lí tưởng cộng sản? Nhờ có lí tưởng, cuộc đời của nhà thơ thêm cao đẹp và thêm giàu ý nghĩa. Thông qua việc xây dựng được hệ thôhg hình ảnh so sánh giàu chất lãng mạn (các hình ảnh có quan hệ chặt chẽ với nhau: nắng hạ, mặt trời, vườn hoa lá...); thông qua việc sử dụng những từ ngữ diễn tả sức mạnh cao độ: “fczZng”, “c/iói”, “rất đậm” .... khổ thơ đầu thể hiện một cách sinh động niềm sung sướng ngây ngất của tác giả khi được “mặt trời chân lí chói qua tim”.
Nếu khổ đầu của bài thơ là tiếng reo vui phấn khởi, thì khổ thơ thứ hai và thứ ba là “bản quyết tâm thư” của người thanh niên cộng sản nguyện hòa cái “tôi” nhỏ bé của mình vào cái “ta” chung rộng lớn của quần chúng cần lao. Người đọc thật sự cảm động bởi thái độ chân thành, tha thiết đến vồ vập của một nhà thơ vốn xuất thân từ tầng lớp tiểu tư sản tự giác và quyết tâm gắn bó với mọi người:
Tôi buộc lòng tôi với mọi người,
Để tình trang trải với trăm nơi.
Để hồn tôi với bao hồn khổ,
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.	'
vẫn trong mạch cảm xúc trữ tình của khổ đầu, khổ hai và khổ ba còn thể hiện niềm hãnh diện được là một thành viên ruột thịt trong đại gia đình của những người nghèo khổ bất hạnh:
Tôi đã là con của vạn nhà,
Là em của vạn kiếp phôi pha.
Là anh của vạn đầu em nhỏ,
Không áo cơm, cù bất cù bơ.
Với một tình cảm cá nhân đằm thắm, trong sáng, bài thơ “Từ ấy” đã nói về lí tưởng, về chính trị một cách thật tự nhiên, nhuần nhụy. Bài thơ ngắn gọn này tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu giai đoạn đầu, và đúng là “tiếng hát của một thanh niên, một người cộng sản” (Hoài Thanh).
(Theo Trần Xuân Hồng, Tạp chí Văn học số 3 - 1990)