Soạn bài Mộ (Chiều tối)

  • Mộ (Chiều tối) trang 1
  • Mộ (Chiều tối) trang 2
  • Mộ (Chiều tối) trang 3
  • Mộ (Chiều tối) trang 4
  • Mộ (Chiều tối) trang 5
  • Mộ (Chiều tối) trang 6
MỘ
(Chiều tối)
(Trích Nhật kí trong tù)
KIẾN THỨC Cơ BẢN
A. Giới thiệu
Bài thơ được sáng tác trong thời gian gian khổ nhất của Bác tròng 14 tháng bị giam giữ tại nhà tù Tưởng Giới Thạch. Hơn nữa, Bác lại làm thơ trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo vào một buổi chiều tối. Đây là bài thơ thứ 31 trong sô' 135 bài thơ của “Nhật kí trong tù”.
về văn bản
Đô'i chiếu nguyên tác và bản dịch thơ thì thấy câu 1 dịch đạt, câu 2 không dịch được chữ cô trong cô vân, từ mạn mạn dịch là nhẹ thì nhẹ quá, nên dịch là chầm chậm hoặc lững lờ. Câu 3 thừa chữ tối. Câu 3, 4 chỉ lặp lại. được một chữ xay không thể hiện được biện pháp điệp ngữ chuyển tiếp (điệp ngữ vòng): ma bao túc - bao túc ma. Câu 4 nhịp ngắt của nguyên tác là 4/3 phù hợp hơn nhịp 2/5 trong câu dịch (diễn tả sự bùng lên nhanh, mạnh của ngọn lửa).
- Bô' cục của bài thơ:
+ Câu 1, 2: Sự chia sẻ cảm xúc với thiên nhiên buổi chiều nói lên tâm hồn nhạy cảm, lòng yêu thiên nhiên của chủ thể trữ tình.
Ngoài ra, còn cảm nhận được sự bình tĩnh về tinh thần, sự thư thái về tâm hồn của chủ thể trữ tình qua hình ảnh chim trở về tổ, đám mây trôi lững lờ trên bầu trời.
+ Câu thơ 3, 4: Con người xuất hiện trở thành trung tâm của thế giới nghệ thuật.
Khi con người xuất hiện, ánh sáng và hơi ấm bùng lên, cảm giác cô đơn, mệt mỏi thoáng hiện trong hai câu thơ trước tan biến.
B. Đọc - Hiểu văn bản
Bài thơ vẽ cảnh chiều tối nơi núi rừng - buồn vắng mà vẫn ánh lên sự sống ấm áp của con người, qua đó bộc lộ một tâm hồn thi nhân nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên, một tấm lòng nhân hậu đô'i với con người, một phong thái ung dung luôn hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai.
Cảnh chiều tối là một đề tài quen thuộc của văn chương. Khung cảnh buổi chiều về tô'i thường gợi lên chất thơ đặc sắc, cho nên buổi chiều đã đi vào bao áng thơ cổ kim, làm nên những vần thơ tuyệt tác. Thơ chiều cổ điển thường man mác một nỗi buồn đìu hiu, hoang vắng trong sự tàn tạ của thời gian, hoặc trĩu nặng nỗi buồn tha hương lữ thứ...
Hai câu thơ đầu là một bức tranh chiều đầy chất cổ điển
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.
Cánh chim và chòm mây là hai hình ảnh quen thuộc thường xuất hiện trong thơ chiều xưa nay. Cho nên đó chỉ là hai hình ảnh của không gian mà đã mang theo ý nghĩa thời gian. Trong hai câu thơ không hề có chữ “chiều” mà cảnh chiều đã hiện ra. Bút pháp chấm phá chỉ với vài nét vẽ {bầu trời, cánh chim và chòm mây) đã tả được cái hồn của cảnh chiều nơi rừng núi. Nghệ thuật đối lập giữa cái vô hạn là bầu trời với cái hữu hạn là cánh chim và chòm mây làm hiện lên vẻ đẹp tĩnh lặng, mênh mông của trời chiều. Cảnh đẹp, và thoáng một nét buồn. Mỗi một chi tiết của cảnh đều nhuốm màu tâm trạng. Cánh chim mỏi tìm về tổ ấm, còn người tù mỏi mệt sau một ngày đường mà vẫn chưa đến được chỗ dừng chân. Chòm mây lẻ loi trôi lững lờ trên tầng không, còn người tù thì cô đơn giữa một buổi chiều nơi đất khách. Hai câu thơ đạt đến mức vi diệu của lối tả cảnh ngụ tình.
Hai câu cuối bất ngờ chuyển sang miêu tả hình ảnh con người
Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng
"Xóm núi" là một hình ảnh giản dị biểu tượng cho sự sống bình yên của con người. Xóm núi như đẹp hơn, ấm áp hơn với hình ảnh người thiếu nữ. vẻ đẹp trẻ trung đầy sức sông của người thiếu nữ, vẻ đẹp bình dị khoẻ khoắn của tư thế lao động (xay ngã') trở thành tâm điểm của bức tranh thiên nhiên buổi chiều. Vẻ đẹp ấy càng rạng rỡ hơn bên ánh “hồng” của bếp lửa rực lên giữa chiều tôì. Trong nguyên tác không hề có chữ “tối" nhưng câu thơ đã nói được sự vận động của thời gian từ chiều đến tối. Chữ “hồng” đặt ở cuối bài thơ, soi rõ vẻ đẹp của người thiếu nữ, toả ánh sáng và hơi ấm xua đi cái buồn vắng của bức tranh chiều tối nơi rừng núi. Màu hồng ấy tràn đầy niềm lạc quan yèu đời, yêu sự sống của một tâm hồn nhân đạo cao cả luôn vượt lên cảnh ngộ của riêng mình để trìu mến nâng niu sự sống con người.
“Chiều tối” là một thi phẩm đậm đà màu sắc cổ điển mà cũng rất hiện đại, thể hiện một cách tự nhiên và phong phú vẻ đẹp của hình ảnh người tù - thi sĩ - chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh.
c. Tổng kết:
Bài “Mộ” thể hiện bản lĩnh và tâm hồn cao đẹp của người tù chiến sĩ - nhà thơ Hồ Chí Minh: tình yêu thiên nhièn, yêu cuộc sống, ý chí vượt lèn trên hoàn cảnh khổ cực của bản thân. Bài thơ có vẻ đẹp cổ điển mà hiện đại.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề: Bình giảng bài thơ “Aíộ” (Chiều tối) của nhà thơ Hồ Chí Minh. BÀI VIẾT GỢI ý
Những năm 40 của thế kỉ XX, trên thi đàn văn học lãng mạn vang lên những vần thơ nặng trĩu buổi chiều của Huy Cận: “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc - Chim nghiêng cánh nhỏ, bóng chiều sa...”. Những câu thơ của chàng thanh niên trí thức tiểu tư sản đã mang theo tâm trạng bất lực của cả một lớp người đang ngột ngạt giữa xã hội đen tối Việt Nam dưới ách ngoại bang. Cũng trong một buổi chiều giữa nơi đất khách Trung Hoa, một người tù “tay bị trói giật cánh khuỷu, cổ mang vòng xích” đã để cảm xúc trải ra cùng không gian bao ỉa, làm nên những vần thơ tuyệt tác, vừa cổ kính, vừa rất trữ tình, thư thái:
Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.
Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.
(Chiều tối - bản dịch)
Giờ đây, khi soi mình trong ánh hồng bếp lửa năm xưa ấy, ta chợt khám phá ra vóc dáng của một Con pMgười: Bác Hồ kính yêu !
Buổi chiều đã đi vào bao áng thơ cổ kim. Khung cảnh chiều về tối thường gợi nên chất thơ đặc sắc, nỗi buồn lắng đọng, suy tư về nhân sinh. Nhưng hoàn cảnh của Bác khi viết bài thơ khá đặc biệt, từ thân phận người tù đã vượt qua ám ảnh của cảnh đi đày. Cảm xúc trên đường đi của Bác đã lộ rõ cốt cách của người tù - thi nhân - chiến sĩ Hồ Chí Minh. Giả sử có một học giả nào đó làm một phép so sánh giữa bài thơ này của Bác với những bài thơ lừng danh của Lí Bạch, Đỗ Phủ, của Thôi Hiệu,... e cũng khó phân biệt rõ, bởi bài thơ đã thấm đẫm phong vị Đường thi ! Nhưng đọc thật kĩ, chúng ta vẫn nhận ra phong cách rất riêng - phong cách Hồ Chí Minh, rắn rỏi mà uyển chuyển, hiện thực mà trữ tình, cổ điển mà hiện đại.
Hiện thực của bài thơ cũng được mở ra theo lối cấu tứ Cảnh - Tình quen thuộc của thơ Đường. Thiên nhiên làm nền cho tâm trạng:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ,
Cô vân mạn mạn độ thiển không.
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không)
Thiên nhiên mở ra vẫn là những nét quen thuộc của thi ca cổ điển: Cánh chim - chòm mây - bầu trời, với nhịp điệu thời gian như lắng trầm xuống cùng với ám ảnh của buổi chiều. Ngày xưa Lí Bạch từng mô tả không gian “Chúng điểu cao phi tận - Cô vân độc khứ nhàn", và chúng ta có thể nhận ra nét quen thuộc ấy trong nhũng câu thơ này của Hồ Chí Minh. Tất cả như lắng đọng lại trong một thiên nhiên u trầm. Cảm nhận không gian cũng giông như các nhà thơ xưa, tạo ra sự đối lập giữa cánh chim, chòm mây với bầu trời rộng lớn! Dường như không gian được tạo ra từ sự đối lập như vậy cũng đã gợi sẵn một nỗi buồn trong cảnh. Cánh chim mỏi, chòm mây côi như mang theo nỗi niềm của người tù nơi đất khách quê người !Nhưng ngay trong cách nhìn cảnh, ta cũng nhận ra thái độ ung dung của con người. Hướng về bầu trời, cánh chim và chòm mây, Bác đã thật sự hoà hồn mình vào cảnh vật. Thần thái của hai câu thơ nằm ngay trong hai chữ “mạn mạn” vừa mang nét quen thuộc của thơ Đường, vừa bộc lộ cái ung dung trong xúc cảm của con người. Trong buổi chiều ấy, dường như mọi hoạt động cũng lắng xuống, đám mây lơ lửng, lững lờ, man mác giữa không gian tạo thành độ sâu của khung cảnh. Rất tiếc bản dịch thơ đã không lột tả được khoảnh khắc rất thi sĩ của Bác trong từ láy “mạn mạn” này ! Khi hướng lòng lên với bầu trời, Bác cũng đã xóa nhoà ranh giới giữa người tù và một khách tự do. Tinh thần “tự do lãm thường vô nhân cấm” (Tẩu lộ) chính là ở điểm này.
Ngỡ như cảnh vật ấy sẽ gợi lên những nỗi buồn nhân sinh, ám ảnh thân phận, thế nhưng bài thơ đã đem đến cho ta một cảm nhận hoàn toàn khác với các nhà thơ xưa:
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng.
Như một điều thường thấy trong thơ Bác, hình ảnh ở hai câu thơ này chính là sự thể hiện mối quan tâm của Bác đến cuộc sông xung quanh ! Trong những trường hợp như thế này, bản dịch thường tỏ ra bất lực. Bác rất mạnh dạn trong sử dụng từ địa phương Quảng Đông “bao túc” {ngô). Không những thế, hai câu còn thể hiện sự quan sát của Bác với hành động của con người trong không gian chiều tối. Điểm son trữ tình của bài thơ chính là chỗ này ! Con người không phải chịu sự chi phối của cảnh vật như thơ cổ, mà con người đem lại sức sống cho khung cảnh chiều tôi. Đặc biệt, đố là sự gắn kết “thiếu nữ” - “son thôn" đã cho ta thấy cảm xúc, hồn thơ của Bác. Người luôn luôn phát hiện mối quan hệ hoà hợp giữa người và cảnh vật. Không phải ngẫu nhiên có sự kết hợp này. “Xóm núi” như đẹp hơn, ấm áp hơn nhờ sự xuất hiện của “thiếu nữ”. Và “thiếu nữ' xuất hiện không hề đơn độc, lẻ loi mà gắn với cộng đồng “sơn thôn" của mình. Đó là cách nhìn đặc biệt thường gặp trong thơ Bác:
Chùa xa chuông giục người nhanh bước,
Trẻ dắt trâu về tiếng sáo bay.
{Hoàng hôn)
Hay:
Làng xóm ven sông đông đúc thế,
Thuyền câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh.
{Giữa đường đáp thuyền đi huyện Ung)
Chính vì tấm lòng Bác luôn hướng về con người, yêu mến con người nên ở đâu có sự xuất hiện của con người, có một dấu hiệu của cuộc sông là Người tìm thấy niềm vui. Dẫu rằng trong bài thơ chỉ là công việc xay ngô bình thường, nhưng Người đã lặng lẽ quan sát từ lúc “ma bao túc" {xay ngô) cho đến khi “bao túc ma hoàn” {ngô xay xong). Rõ ràng, người thiếu nữ ấy hiện ra trong công việc hết sức bình thường, nhưng ta nhận ra trong cái nhìn của Bác một thái độ trân trọng đặc biệt, nhờ đó vẻ đẹp của sức sống con người, của cuộc đời càng lộ rõ hơn.
Cũng từ tình cảm hướng về cuộc sống, bài thơ đã có một từ kết làm bừng sáng cả bài thơ. Cái độc đáo của tứ thơ cũng chính là điểm này: Nói về chiều tối bằng sự xuất hiện của ánh sáng, không nói về thời gian mà người đọc lại cảm nhận rõ một khoảng thời gian từ chiều về tối ! Bài thơ không khép lại bàng cảm giác về bóng đêm mà lại chan hoà ánh sáng, ánh sáng tạo nên từ cuộc sông đời thường giản dị. Ánh sáng nổi bật trong đêm tối, như là biểu tượng của sự sông. Ánh sáng ấy gắn với màu ưa thích của Bác - màu hồng. Ánh hồng của bếp lửa, ánh hồng trên gương mặt người hay màu hồng của tấm lòng lạc quan yêu đời của Bác? Màu hồng không chỉ mang ý nghĩa tượng trưng đặc biệt trong riêng bài thơ này mà trong nhiều bài thơ khác cũng thể hiện một ý nghĩa tương tự. Đó là màu sắc của lòng tự tin, ung dung và lạc quan hướng về tương lai.
Nói về cảnh chiều tối, Bác đã quên đi thân phận người tù, vượt lên hoàn cảnh. Ta lại gặp chủ thể trữ tình đằm thắm được bộc lộ kín đáo qua bài thơ. Bài thơ thể hiện một nét độc đáo trong phong cách thơ Hồ Chí Minh, “từ tư tưởng đến hỉnh tượng thơ luôn luôn có sự vận động hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai” (Nguyễn Đăng Mạnh). Ngọn lửa của con người làm điểm hội tụ, là trung tâm tỏa ấm nống và niềm vui ra không gian rộng lớn. Đến thơ Bác, tư cách chủ thể của con người được phản ánh rõ nét và giàu sức sông, vừa cổ điển, vừa lãng mạn.
Ta nhận ra trong nỗi buồn, niềm vui của Bác phẩm chất của một vĩ nhân: rất bình thường, giản dị nhưng mỗi câu thơ toả sức ấm của một ý chí mãnh liệt và sáng bừng lên hồng bao thế hệ, sự hài hoà giữa tình cảm và tinh thần thép đã làm nên những vần thơ sâu sắc, thâm trầm.