Soạn bài Tràng giang

  • Tràng giang trang 1
  • Tràng giang trang 2
  • Tràng giang trang 3
  • Tràng giang trang 4
  • Tràng giang trang 5
  • Tràng giang trang 6
  • Tràng giang trang 7
  • Tràng giang trang 8
TRÀNG GIANG
Huy Cận
KIẾN THỨC Cơ BẢN
A. Giới thiệu
Huy Cận họ Cù (Cù Huy Cận), sinh năm 1919, tai làng Ân Phú, huyện Hương Sơn (nay là xã Đức Ân, huyện Vụ Quang), tỉnh Hà Tĩnh, trong một nhà Nho lớp dưới, gốc nông dân. Thuở nhỏ, Huy Cận học ở quê, rồi vào Huế học hết trung học.
Năm 1941, Huy Cận tích cực hoạt động trong Mặt trận Việt Minh.
Sau Cách mạng tháng Tám, ông liên tục tham gia chính quyền cách mạng, giữ nhiều trọng trách khác nhau, đồng thời có những đóng góp trên lĩnh vực văn hóa - thông tin quốc tế.
- Huy Cận là một trong những tác giả xuất sắc của phong trào Thơ mới (1932 - 1945). Tác phẩm tiêu biểu của ông trước Cách mạng là tập thơ “Lửa thiêng’ (1940), sau Cách mạng là các tập thơ như “Trời mỗi ngày lại sáng” (1958), “Đất nở hoa" (1960), “Chiến trường gần đến chiến trường xa” (1.973), “Hạt lại gieo” (1984)...
Thơ Huy Cận, vừa có chất cổ điển, vừa có chất suy tưởng, triết lí. Ông là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Việt Nam hiện đại và đã được Nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh năm 1996.
“Tràng giang” trích trong tập “Lửa thiêng” là một trong những bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của Huy Cận. Theo tác giả, bài thơ này được viết vào mùa thu 1939 và cảm xúc được khơi gợi chủ yếu từ phong cảnh sông Hồng mênh mông sóng nước.
“Tràng giang” thể hiện nỗi sầu của một “cái tôi” trước thiên nhiên mênh mông hiu quạnh, trong đó thấm đượm tấm lòng đối với quê hương, đất nước của thi sĩ.
B. Đọc - Hiểu văn bản
Khổ thơ thứ nhất
Bài thơ có tựa đề “Tràng giang”, câu thơ đầu tiên nhắc lại tựa đề:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
“Tràng giang” chứ không phải là “trường giang”, mặc dù “tràng giang” và “trường giang” đều có chung một ngữ nghĩa. Nhờ cách điệp vần “ang”, “tràng giang” góp phần tạo nên dư âm vang xa, trầm hùng của câu thơ mở đầu, tạo nên âm hưởng chung cho giọng điệu của cả bài thơ. Mặt khác, “tràng giang” còn gợi lên được hình ảnh một con sông không những dài mà còn rộng. Tuy vậy, xét cho cùng, sức mạnh của hai câu thơ trên không phải là nghệ thuật miêu tả, mà ở nghệ thuật khơi gợi: khơi gợi được cả .xúc cảm lẫn ấn tượng về một nỗi buồn triền miên kéo dài theo không gian (tràng giang) và theo thời gian (điệp điệp).
Huy Cận cũng như phần đông các thi sĩ trong phong trào Thơ mới đều chịu ảnh hưởng khá rõ của thơ tượng trưng phương Tây thế kĩ XIX. Tuy vậy, Huy Cận còn là người yêu thơ Đường và trân trọng vón thơ ca dân gian. Trong sáng tác của ông, người đọc dễ dàng cảm nhận được dấu ấn của thơ Đường. Có điều đáng quý là chúng đã được Việt hoá, nói cho đúng hơn là đã được Huy Cận hóa, một cách nhuần nhị.
Ở khổ thơ đầu cũng như toàn bộ bài “Tràng giang”, nghệ thuật đối của thơ Đường đã được vận dụng hết sức linh hoạt, chủ yếu là đôi về ý, chứ không bị câu thúc về niêm luật như cách đối trong thơ cổ. Chẳng hạn, “sóng gạn tràng giang buồn điệp điệp” có thể coi là đối với “con thuyền xuôi mái nước song song”; “nắng xuống trời lèn sâu chót vót” đốì với “sông dài, trời rộng, bến cô liêu”. Hoặc ở một cấp độ khác: “Bèo dạt về đâu hàng nối hàng - Mênh mông không một chuyến đò ngang” lại có thể đốì với “Không cầu gợi chút niềm thân mật - Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”....
Nghệ thuật đối ý và đối xứng nói trên, một mặt, làm cho giọng điệu bài thơ uyển chuyển, linh hoạt, tránh được những khuôn sáo, cứng nhắc dễ thấy ở không ít bài thơ viết theo lối Đường luật hồi đầu thế kỉ XX; mặt khác, nó vẫn phát huy được một trong những thế mạnh của loại thơ này, tạo nên không khí trang trọng, sự cân xứng, nhịp nhàng. Bên cạnh đó, nghệ thuật dùng từ láy như “điệp điệp”, “song song” cũng có hiệu quả nhất định gợi âm hưởng cổ kính. Tuy vậy, “Tràng giang" vẫn là một bài thơ hiện đại, nói cụ thể hơn là sản phẩm của phong trào Thơ mới. Đúng thế, Tràng giang hiện đại ở hình ảnh, thi liệu và cảm xúc:
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả;
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Vào những năm 30 của thế kĩ trước, đây được coi là những câu Thơ mới mẻ; bởi trong đó xuất hiện cái tầm thường nhỏ nhoi, vô nghĩa như “củi một cành khô”. Thơ xưa chủ yếu là địa hạt dành riêng cho những “tao nhân mặc khách”, nó ít chấp nhận cái hiện thực thô ráp của đời thường. Nhìn chung, phải chờ đến Thơ mới, cái tầm thường mới xuất hiện và góp phần tạo nên một “cuộc cách mạng trong thơ” (Hoài Thanh). Hình ảnh một cành củi khô đơn lẻ trôi bồng bềnh trên dòng sông mênh mông sóng nước dễ gợi lên nỗi buồn về kiếp người bé nhỏ, vô định.
Khổ thơ thứ hai
Nỗi buồn càng như thấm vào cảnh vật:
Lơ thơ cồn nhỏ, gió đìu hiu,
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Nắng xuống, trời lên, sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Theo Huy Cận, từ “đìu hiu" ông học được trong bản dịch “Chinh phụ ngâm”-. “Non Kì quạnh quẽ trăng treo - Bến Phỉ gió đổi đìu hiu mấy gò”. Hơn nữa, cặp từ láy “lơ thơ” và “đìu hiu” cũng gợi lên được sự buồn bã, quạnh vắng, cô đơn,... Câu thơ “đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều” lâu nay vẫn tồn tại hai cách hiểu xuất phát từ cách hiểu từ đâu (có và không có tiếng chợ chiều đã vãn). Dẫu hiểu theo cách nào, thì hình ảnh chợ chiều đã vãn trong câu thơ cũng gợi thêm một nét buồn. Ớ đây, dường như Huy Cận muôn phủ nhận tất cả những gì thuộc về con người (không tiếng chạ chiều nằm trong hệ thống không một chuyến đò và không một cây cầu ỗ khổ thơ sau), chỉ còn cảnh vật, đất trời mênh mông, xa vắng...
Nắng xuống trời lên, sâu chót vót;
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Đây là những câu thơ có giá trị tạo hình đặc sắc. Không gian được mở rộng và đẩy cao thêm. “Sâu” gợi được ở người đọc ấn tượng thăm thẳm, hun hút khôn cùng. “Chót vót” khắc họa được chiều cao dường như vô tận. Càng rộng, càng sâu, càng cao thì cảnh vật càng thêm vắng lặng, chỉ có sông dài, trời rộng với bến lẻ loi, xa vắng (cô liêu). Nỗi buồn tựa hồ như thấm vào không gian ba chiều. Con người ở đây trở nên bé nhỏ, có phần như bị rợn ngợp trước vũ trụ rộng lớn, vĩnh hằng và không thể không cảm thấy “lạc loài giữa cái mênh mông của đất trời, cái xa vắng của thời gian” (Hoài Thanh).
Khổ thơ thứ ba
Bèo dạt về đâu hàng nối hàng;
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Vẫn trong mạch cảm xúc được gợi ra từ hai khổ thơ đầu, nỗi buồn càng được khắc sâu qua hình ảnh những cánh bèo trôi dạt lênh đênh. Bên cạnh nhữnh hình ảnh thuyền và nước như cùng về cõi vô biên, hình ảnh cành củi khô lưu lạc, bập bềnh trên sóng nước ở khổ thơ đầu, đến khổ thơ này, ấn tượng về sự chia li tan tác được láy một lần nữa càng gợi thêm về một nỗi buồn mênh mông. Toàn cảnh sông nước, trời rộng tuyệt nhiên không có bóng dáng con người. “Không một chuyến đò” và cũng không có lấy một cây cầu để có thể tạo nên sự gần gũi giữa con người với con người; mà chỉ có thiên nhiên (ỏờ xanh) với thiên nhiên (bãi vàng) xa vắng, hoang vu. Vì thế nỗi buồn ở bài thơ này không chỉ là nỗi buồn mênh mông trước cảnh trời rộng sông dài - như nhiều người đã nhận xét - mà còn là nỗi buồn về cuộc đời, về nhân thế.
Như vậy, sự cô quạnh đã được thi sĩ đặc tả độc đáo bằng chính cái không tồn tại. Thực ra, điều này còn có thể nhận thấy ở khổ thứ hai (“Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”) và ở khổ thứ tư (“Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”) nhưng có lẽ rõ nhất vẫn là ở khổ thứ ba này. Bởi thế, có thể nói, thái độ phủ nhận thực tại nằm ngay trong kết cấu của bài thơ.
Khổ thơ thứ tư
Mặc dù nhà thơ mượn một sô' cách diễn đạt của thơ Đường nhưng vẫn giữ được nét riêng biệt của Thơ mới và vẫn thể hiện khá rõ nét độc đáo của hồn thơ Huy Cận:
Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ; bóng chiều sa.
Lòng quê dạn dạn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Ớ đây, thiên nhiên tuy buồn, nhưng thật tráng lệ. Mùa thu, những đám mây trắng đùn lên trùng điệp ở phía chân trời. Ánh dương phản chiếu vào làm những đám mây đó lấp lánh như những ngọn núi bạc. Nét đặc trưng này của mùa thu đã được Đỗ Phủ mô tả trong bài thơ “Thu hứng”-. “Lưng trời sóng gọn lòng sông thẳm - Mặt đất mây đùn cửa ải xa”. Lấy lại ý thơ của người xưa, hình ảnh “mây cao đùn núi bạc” tạo ấn tượng về sự hùng vĩ của thiên nhiên. Trước cảnh sông nước, mây trời bao la và hùng vĩ ấy, bỗng hiện lên một cánh chim bé bỏng, nó chỉ cần nghiêng cánh là cả bóng chiều sa xuống. Hình ảnh cánh chim đơn lẻ trong buổi chiều tà thường dễ gợi lên nỗi buồn xa vắng. Nhưng điều đáng nói ở đây chính là hiệu quả của nghệ thuật đối lập. Đối lập giữa cánh chim nhỏ bé với vũ trụ bao la, hùng vĩ. Phải chăng, điều này đã làm cho cảnh thiên nhiên rộng hơn, thoáng hơn, hùng vĩ hơn và đặc biệt là cũng buồn hơn?
Như vậy, đi suốt bài thơ là một nỗi buồn triền miên, vô tận. Nỗi buồn ở bài thơ này cũng như phần nhiều nỗi buồn của các nhà Thơ mới, trước hết chính là nỗi buồn của thế hệ Huy Cận, của cả dân tộc Việt Nam trong những năm ngột ngạt dưới thời thuộc Pháp. Vả chăng, nỗi buồn nói trên còn xuất phát từ chính quan niệm mĩ học của các nhà thơ lãng mạn đương thời? Theo họ, cái đẹp thường đi sóng đôi với cái buồn. Cái buồn của Huy Cận ở bài thơ này, trước sau vẫn là cái buồn trong sáng, góp phần làm phong phú thêm tâm hồn bạn đọc.
Bài thơ có ý vị cổ điển, tạo được những vang hưởng kì lạ do tác giả đã chọn được thể thơ thích hợp, vận dụng tự nhiên lối đối, sử dụng có hiệu quả với tần số cao hệ thống từ láy (10 lần trong 16 dòng thơ) và cách ngắt nhịp truyền thông (4/3). Chất cổ điển của bài thơ đặc biệt rõ ở câu kết. Thôi Hiệu nhìn khói sóng nhớ đến quê hương {.“Nhật mộ hương quan hà xứ thị? - Yên ba giang thượng sử nhân sầu” - “Hoàng Hạc lâu”). Huy Cận không cần có khói sóng - tức là không cần có cái gợi nhớ - mà lòng vẫn dợn dợn nhớ nhà. Rõ ràng, nỗi nhớ của Huy Cận da diết hơn, thường trực hơn và cháy bỏng hơn. Vì thế, nó hiện đại hơn.
Cổ kính, trang nghiêm, đậm chất 'Đường thi nhưng “Tràng giang” vẫn là một bài thơ rất Việt Nam. Con sóng uốn lượn, con thuyền xuôi mái chèo, cành củi khô bồng bềnh, cánh bèo lênh đênh, chợ chiều của làng quê, cánh chim trong buổi chiều tà,... thật gần gũi với người Việt Nam chúng ta. Đọc bài thơ này có người nhớ đến cái làng ở vùng sơn cước heo hút bên bờ sông Thầm, cạnh núi Mồng Gà thuộc huyện Hương Sơn (nay là huyện Vụ Quang) tỉnh Hà Tĩnh - nơi chôn rau cắt rốn của Huy Cận.
Và xét ở một phương diện nào đấy, “Tràng giang” đúng là một bài thơ “ca hát non sông đất nước; do đó dọn đường cho lòng yêu giang sơn Tổ quốc" (Xuân Diệu).
c. Tổng kết
Bằng bài thơ “Tràng giang” vừa cổ điền, vừa hiện đại, Huy Cận đã thể hiện nỗi sầu nhân thế, nỗi buồn mênh mông trước vũ trụ rộng lớn, niềm khao khát gắn bó với cuộc đời và tình yêu đối với quê hương, đất nước.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề: Môi quan hệ giữa không gian và thời gian trong bài thơ “Tràng giang”.
GỢI Ý
Hai chiều không gian và thời gian trong bài thơ
Không gian được thể hiện trong bài thơ là khung cảnh tạo vật thiên nhiên với hai sắc thái nổi bật: mênh mông vô biên và hoang sơ hiu quạnh.
Thời gian trong bài thơ là chiều muộn {“Đâu tiếng làng xa vãn chạ chiều") đang nghiêng dần về hoàng hôn {“Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa” và “Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”).
Quan hệ giữa hai chiều không gian và thời gian thật rõ rệt
Trước hết, là tác động tương hỗ giữa chúng:
+ Phải là chiều thì không gian mới phơi lộ hết vẻ hoang sơ, hiu quạnh.
+ Không gian càng hoang sơ, hiu quạnh, càng tô đậm nỗi buồn đặc
trưng của thời gian chiều.
Không gian và thời gian phụ họa với nhau tạo nên một khung cảnh thật rợn ngợp, gợi buồn sầu đối với con người, nhất là con người đang là kẻ cô lữ.
Đồng thời, cả không gian và thời gian đều vận động. Sông nước, thuyền, củi, bèo, mây, chim, bãi bờ,... đều như đang tiếp nôi chảy trôi. Còn buổi chiều càng lúc càng muộn hơn. Sự vận động này cũng phụ họa nhau, hòa điệu với nhau khiến cho diện mạo của cảnh vật càng lúc càng âm u, xa vắng, hắt hiu; cảm xúc càng lúc càng nặng nề, u ám.
TƯ LIỆU THAM KHẢO
Nhà thơ Huy Cận đã từ trần ngày 19 tháng 2 năm 2005 vừa qua, tại Hà Nội, thọ 86 tuổi.
Tác giả “Lửa thiêng” là một trong những nhà Thơ mới cuối cùng, đã ra đi, mang theo một thời đại, khép lại một cõi thơ: Thơ mới ra đời những năm 30, chính xác hơn, ngày 10 tháng 3 nám 1932 với bài "Tỉnh gia' của Phan Khôi, đăng trên Phụ nữ Tân văn số 122. Và cõi thơ ấy đã tồn tại đến ngày nay, với những thăng trầm...
Cù Huy Cận sinh ngày 31 tháng 5 năm 1919 tại xã Ân Phú, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Thuở nhỏ học trường làng, trung học ở Huế; đến 1939 ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông, và 1943 tốt nghiệp kĩ sư canh nông. Tham gia phong trào Việt Minh từ năm 1942, và từ 1945 đến nay liên tục giữ các chức hàm Thứ trưởng, hoặc Bộ trưởng, đặc trách văn hoá, văn nghệ.
Làm thơ từ năm 1934, được đăng trên báo từ năm 1936. Ngay trong thời gian ở Huế đã cùng với Hoài Thanh viết những bài bình luận trên các báo Tràng An, Sông Hương. Nẳm 1936, gặp Xuân Diệu ở trường Khải Định, và kết bạn từ đó. Những năm 1937, 1938, 1939, Huy Cận trao đổi thư từ với Chế Lan Viên, lúc đó đã xuất bản “Điểu tàn”. Từ 1939, ông ra Hà Nội ở chung với Xuân Diệu trên căn gác số 40 phố Hàng Than.
Tháng 11 năm 1940, tập “Lửa thiêng” được NXB Đời nay của Tự lực văn đoàn xuất bản, Xuân Diệu đề tựa, Tô Ngọc Vân trình bày bìa.
Vũ trụ bát ngát trong “Lửa thiêng” là gì? Là một vũ trụ sầu, sầu vô cớ, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Thời ấy, người ta hay sầu lắm. Có người bảo tất cả những nỗi sầu ấy đều giống nhau, đều bắt nguồn từ cái spleen của một chàng Edgar Poe nào đó. Đồng ý, nhưng mỗi nhà thơ tài hoa của chúng ta đều tạo được một mối sầu riêng. Hồ Dzếnh có nét sầu của Hồ Dzếnh, Huy Cận có nỗi sầu Huy Cận... Và mỗi nỗi sầu riêng ấy là một vũ trụ thơ, một vũ trụ đời.
Hai bài thơ hay vào loại nhất nhì trong tập “Lửa thiêng”, Huy Cận viết tặng Khái Hưng. Chắc là thời ấy, Huy Cận mến mộ Khái Hưng lắm. Còn một sô' những bài khác như “Đi giữa đường thơm” đề tặng Thạch Lam, “Đẹp xưa” tặng Tô Ngọc Vân, “Học sinh” tặng Tú Mỡ, “Hồn xa” tặng Thế Lữ, “Giấc ngủ chiều” tặng Hoàng Đạo, “Nhạc sầu” tặng Nguyễn Gia Trí, “Áo trắng” tặng Nhất Linh... Tập “Lửa thiêng”, như vậy, ngoài giá trị thi ca, còn lưu lại một chút tình bạn, tình người. Cho nên hôm nay, chúng tôi muốn nhắc lại hai bài thơ vào loại hay nhất của Huy Cận: Bài “Buồn đêm mưa” tặng Khái Hưng, và bài “Tràng giang” tặng Trần Khánh Giư (tên thật của Khái Hưng - NBS)
Buồn đêm mưa
(tặng Khái Hung)
Đêm mưa làm nhớ không gian,
Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la...
Tai nương nước giọt mái nhà,
Nghe trời nặng nặng, nghe ta buồn buồn.
Nghe đi rời rạc trong hồn,
Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi...
Rơi rơi... dìu dịu rơi rơi...
Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ...
Tương tư hướng lạc, phương mờ...
Trở nghiêng gối mộng, hững hờ nằm nghe.
Gió về, lòng rộng không che,
Hơi may hiu hắt bốn bề tâm tư...
“Buồn đêm mưa” xác định nỗi sầu Huy Cận. Đó là nỗi buồn vô cớ, xuyên suốt không gian, như một độ ẩm có sức thẩm thấu ngấm ngầm, theo nước mưa thấm vào lòng người. Những yếu tố âm nhạc và thi ca ở đây kết hợp toàn bích như một bản nhạc phổ thơ, như bài thơ phổ nhạc. Và tiếng buồn, khởi đi từ không gian ẩm lạnh của đêm mưa, và tiếng mưa như những nốt nhạc gợi nhớ, một nỗi nhớ vu vơ, nhớ ai? Nhớ không gian. Không gian nào? Không gian giá buốt, chứa một "nỗi hàn bao la"... Càng nằm, càng nghe, càng lạnh, điệu nhạc mưa càng tung hoành, làm khắc khoải lòng người, làm đờ đẫn tâm can, làm lang thang chân bước, từ mưa đến mộng, từ tâm cảnh sang ngoại cảnh. Đó là một nỗi sầu vô cớ, sầu lang thang, không nhà không cửá, sầu không quán trọ, sầu không phương hướng... sầu dọc chiều dài thời gian và sầu mênh mông trong không gian vô tận. Chưa bao giờ chúng ta nghe một bản nhạc sầu như thế, sầu hồn hoà trong ướt át gió mưa, nhẹ nhàng sầu và êm ái đến thế.
Đến bài “Tràng giang” tặng Trần Khánh Giư, không gian sầu mở tung trên trời nước. Phạm Duy bảo khi ông làm bài “Cửu Long giang”, ông đã nghĩ đến “Tràng giang” của Huy Cận, và bất cứ ai trong chúng ta, một lúc nào đó, ngược dòng Cửu Long, hoặc xuôi sóng Bạch Đàng, mà không chạnh thấy bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài.
Niềm bâng khuâng dâng lên như sóng, từng đợt, từng đợt trùng trùng, chiếm hữu tâm tư, sông loang thành biển, mối sầu tan rộng như đại dương, bay lên thượng tầng thanh khí...
Niềm giao ứng giữa đất trời và lòng người, giữa cảm xúc và thiên nhiên, giữa vũ trụ và không gian mà Baudelaire gọi là correspondance - giao cảm, ở đây xảy ra trên toàn diện, trong không khí Đường thi, và Thôi Hiệu cũng quanh quất đâu đây. Theo mối sầu thiêng sâu chót vót, Huy Cận giao cảm Đông Tây trời đất, giao cảm sông nước và hồn người bằng phong thái thăng hoa tinh vi giữa nhạc và chữ.