Soạn bài Hạnh phúc của một tang gia

  • Hạnh phúc của một tang gia trang 1
  • Hạnh phúc của một tang gia trang 2
  • Hạnh phúc của một tang gia trang 3
  • Hạnh phúc của một tang gia trang 4
  • Hạnh phúc của một tang gia trang 5
  • Hạnh phúc của một tang gia trang 6
HẠNH PHÚC CỦA MỘT TANG GIA
(Trích “Sô'đỏ”)
Vũ Trọng Phụng
KIẾN THỨC Cơ BẢN
A. Giới thiệu
Vũ Trọng Phụng (1912 - 1939) sinh tại Hà Nội, trong một gia đình “nghèo gia truyền” (Ngô Tất Tô'), quê ở làng Hảo, huyện Mĩ Hào, tỉnh Hưng Yên.
Mới bảy tuổi đã mồ côi cha, ông được người mẹ tần tảo nuôi cho ăn học. Sau khi tốt nghiệp tiểu học, Vũ Trọng Phụng đi làm kiếm sống, nhưng chẳng được bao lâu thì mất việc. Từ đó, ông sông chật vật, bấp bênh bằng nghề viết báo, viết văn chuyên nghiệp. Khoảng năm 1938 - 1939, Vũ Trọng Phụng mắc bệnh lao, nhưng không có điều kiện chạy chữa, ông mất tại Hà Nội. Sinh thời, Vũ Trọng Phụng là người mực thước, chăm đọc và cần mẫn lao động sáng tạo.
Vũ Trọng Phụng bắt đầu có truyện đăng báo từ năm 1930. Ông viết bằng nhiều thể loại, nhưng thành công hơn cả là phóng sự và tiểu thuyết. Ngoài tên thật, đồi khi nhà vân còn dùng bút danh Thiên Hư. Đây là cây bút có sức sáng tạo dồi dào. Không đầy mười năm viết văn, ông đã để lại một khôi tác phẩm to lớn, tiêu biểu là các phóng sự: “Cạm bẫy người”, “Kĩ nghệ lấy Tây", “Cơm thầy cơm cô”; các tiểu thuyết: “Giông tố”, “Số đỏ”, “Vỡ đê”.
Sáng tác của Vũ Trọng Phụng toát lên niềm căm phẫn mãnh liệt cái xã hội thực dân phong kiến tàn bạo và thôĩ nát đương thời. Có thể nói, bằng một tài nàng lớn và phong cách nghệ thuật độc đáo’, Vũ Trọng Phụng có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển của văn xuôi Việt Nam hiện đại, đặc biệt là tiểu thuyết và phóng sự.
Tiểu thuyết “Số dỏ” được đăng ở Hà Nội báo từ sô' 40 ngày 7 - 10 - 1936 và in thành sách lần đầu năm 1938.
Tiểu thuyết “Số đỏ” được ra đời năm 1936. Bây là năm đầu của Mặt trận Dân chủ Đông Dương, không khí đấu tranh dân chủ sôi nổi, chê' độ kiểm duyệt sách báo khe khắt của thực dân phải tạm thời bãi bỏ. Bô'i cảnh ấy đã tạo điều kiện cho nhà văn phát huy cao độ những mặt tích cực, đạt được những thành tựu rực rỡ.
Thông qua tác phẩm này, “nhà văn đả kích sâu cay cái xã hội tư sản thành thị đang chạy theo lối sống nhố nhăng đồi bại đương thời”.
Dùng tiếng cười làm vũ khí, Số đỏ vạch trần thực chất thối nát của các phong trào “Âu hoá", “Thể thao”, “Vui vẻ trẻ trung”... được bọn thông trị khuyên khích và lợi dụng, từng lên cơn sô't vào những năm 30 của thê' kỉ trước. Vũ Trọng Phụng đã ném ra hàng loạt nhân vật đi “tiên phong” trong các phong trào nói trên, như Xuân Tóc Đỏ, vợ chồng Văn Minh, bà Phó Đoan,
Typn,... Chúng tự phong là những nhà “cỏi cách xã hội”, nhưng thực chất, chỉ là một lũ dâm ô, đểu giả và bịp bợm.
Thành công nổi trội nhất của tiểu thuyết “Số đỏ” là đã xây dựng được một loạt chân dung biếm họa xuất sắc. Trước hết là thằng Xuân ma-cà-bông đã từng thổi kèn loa thuốc phiện, cầm cờ chạy hiệu rạp hát,... bỗng chốc nhờ cái dâm của bà Phó Đoan mà được gia nhập thê giới thượng lưu. Là một đứa láu lỉnh, quen biến báo, Xuân biết phần nào lợi dụng thời cơ đó để tiến thân. Nó đã đi từ “vinh quang” này đến “chiến thắng” khác một cách dễ dàng. Một thằng vô học, vô lại, một thằng ma-cà-bông mà được phong tặng bao danh hiệu cao quý, nào là “sinh viên trường thuốc", nào là “nhà thố’, “triết gia”, “danh thủ quần vợt”, nào là “nhà cải cách”, thậm chí “anh hùng cứu quốc”...
Bản chất xấu xa và quá khứ đê tiện của Xuân không bị lộ tẩy, bởi vì nó ngoi lên từ một xã hội rất cần đến những tính cách như nó.
Nhân vật Xuân Tóc Đỏ thoạt xem, tưởng như được viết ra một cách hết sức tuỳ tiện, thậm chí tuỳ tiện đến mức vô lí. Vậy mà ngẫm kĩ có thể khẳng định, tác giả không hề vu oan cho ai cả. Nghĩa là trong xã hội cũ không thiếu gì những thằng Xuân như thế. Đó là một nhân vật được xây dựng bằng bút pháp điển hình xuất sắc. Có thể nói, chừng nào xã hội còn dựa trên “nguyên tắc” của sự bịp bợm, còn cổ vũ cho cái dâm, cái đểu, còn khuyên khích chủ nghĩa cơ hội và các thứ đồ rởm thì ắt sẽ còn nhiều Xuân Tóc Đỏ...
Châu tuần quanh thằng Xuân là một loạt nhân vật biếm họa khác, mỗi người một vẻ: Bà Phó Đoan to béo “thủ tiết với hai đời chồng”, được tặng bằng “Tiết hạnh khả phong”; ông chủ tiệm may Âu hoá Văn Minh gầy còm, luôn hô hào thể thao, thể dục mà không hề tập thể dục bao giờ; nhà thiết kế mẫu thời trang Typn từng chế ra những y phục phụ nữ rất táo bạo: “Dậy thì”, “Ngừng tay”, “Ỡm ờ”,... nhưng lại mắng vợ là đồ đĩ vì cô ta thích ăn mặc tân thời; cụ cố Hồng không biết gì cả, nhưng động mở miệng là: “Biết rồi, 'khổ lắm, nói mãi !”; những thầy cảnh sát Min Đơ, Min Toa thì lấy làm đau khổ vì không có ai phóng uế bừa bãi để biên phạt; sư ông Tăng Phú từng khoe thắng một vụ kiện khiến đối thủ phải hộc máu mồm; ông Phán mọc sừng thuê tiền để người ta gọi mình là “ông chồng mọc sừng"... Như vậy, có thể nói tác giả “Số đỏ” đã bao quát hầu như toàn bộ xã hội thành thị ngày trước vào trong ông kính quan sát của mình. Đấy là một xã hội nhốn nháo, nhô' nhăng, trong đó, mỗi nhân vật là một vai hề không hơn không kém.
Bộ mặt và cá tính hài hước của các nhân vật trên đây được nhà văn làm cho nổi bật bằng cách đặt chúng vào những tình huống trào phúng. Đây cũng là một phương diện về tài năng sáng tạo của tác giả “Số dỏ”. Có thể nói mỗi chương sách là một tình huống trào phúng, xây dựng trên mâu thuẫn nực cười.
3. “Hạnh phúc của một tang gia” là toàn bộ chương XV của tác phẩm “Sô đỏ”. Nhan đề đầy đủ của chương này là “Hạnh phúc của một tang gia hay niềm vui của những đứa con hất hiếu”.
B. Đọc - Hiểu văn bản
Nhan đề đoạn trích
Ở chương truyện này, mâu thuẫn trào phúng thể hiện ngay ở đầu đề của nó. Tang gia mà lại hạnh phúc ! Có người chết mà lại vui như hội ! Đúng là hạnh phúc của một gia đình vô phúc, niềm vui của một lũ con cháu đại bất hiếu. Người ta thường nói “tang gia bối rối”, tác giả đã dựng nên đúng cái cảnh bối rối của gia đình cụ cô' Hồng khi cụ tổ nằm xuồng. Chẳng những bối rối mà còn lo lắng nữa và dĩ nhiên là hết sức bận rộn. Nhưng lo lắng, bận rộn để tổ chức cho chu đáo, cho thật linh đình một ngày vui, một đám hội chứ không phải của một đám ma. Như vậy, tiêu đề “Hạnh phúc của một tang gia” vừa giật gân, gây chú ý cho người đọc, vừa phản ánh rất đúng một sự thật mỉa mai, hài hước này.
Niềm hạnh phúc của tang gia
Niềm vui chung lớn nhất cho cả đại gia đình bất hiếu này là tờ di chúc của cụ cô' tổ cuối cùng đã tới lúc được thực hiện. Nghĩa là khi cụ quy tiên thì cái gia tài kếch sù của cụ mới chia cho con và cháu, dâu và rể,... Tình huống này đã làm bộc lộ biết bao nhiêu mầu thuẫn trào phúng khác đủ loại và làm đậm nét hàng loạt chân dung hài hước.
Trong niềm vui chung kia, mỗi người lại có một niềm vui riêng không ai giống ai
Cụ cô' Hồng tuy mới 50 tuổi nhưng lâu nay chỉ mơ ước được gọi là cụ cô'. Nay được mặc áo xô gai, lụ khụ chông gậy, vừa ho khạc, vừa khóc mếu máo diễn trò già nua ốm yếu giữa phô' đông người “để cho thiên hạ phải trầm trồ: úi chà, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa !”.
Văn Minh chồng thì sung sướng vì “cái chúc thư kia sẽ vào thời kì thực hành chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa”.
Văn Minh vợ và ông Typn, nhà cải cách y phục Âu hoá, thì được dịp lăng-xê những mô't y phục táo bạo nhất “có thể ban cho những ai có tang đương đau đớn vì kẻ chết củng được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời”.
Cô Tuyết thì được dịp “mặc bộ y phục Ngây tha - cái áo voan mỏng, trong có coóc-sê, trông như hở cả nách và nửa vú - nhưng mà viền đen, và đội một cái mũ mấn xinh xinh”, đồng thời lại có cơ hội để gò lấy gương mặt “hơi có một vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt”.
Cậu Tú Tân thì sướng điên người vì được dùng đến cái máy ảnh mới mua.
Ông Phán mọc sừng thì sung sướng vì không ngờ rằng cái sừng trên đầu mình lại có giá trị đến thế và tất sẽ được trả công xứng đáng. (Bởi lẽ, ông cụ tổ sở dĩ làn đùng ra và cấm khẩu vì biết tin con rể mọc sừng).
Xuân Tóc Đỏ thì danh giá và uy tín càng to thêm vì nhờ hắn mà cụ cố tổ chết. (Xuân “có công” tố cáo việc ông Phán mọc sừng trước mặt cụ cô' tổ.)
Hạnh phúc còn lây lan ra cả những người ngoài tang quyến'. Cảnh sát Min Đơ và Min Toa đang lúc thất nghiệp, được thuê giữ trật tự cho đám tang (và có như vậy mới có tiền). Xã hội trưởng giả bè bạn cô' Hồng, cô Tuyết, ông bà Văn Minh được dịp khoe các thứ huy chương, phẩm hàm và các thứ râu ria trên mép, dưới cằm... và hàng phô' thì được xem một đám ma to tát chưa từng có “đưa đến đâu làm huyên náo đến đấy”...
Cảnh đưa đám
Đoạn tả đám tang diễn từ nhà cụ cô' Hồng ra đến huyệt cũng rất hài hước. Đám ma mà như đám rước vậy. Đủ cả kèn Ta, kèn Tây, kèn Tàu. Hàng trăm câu đối, vòng hoa, bức trướng. Lại thêm “sáu chiếc xe, trên có sư chùa Bà Banh, xe nào cũng che hai lọng” và “hai vòng hoa đồ sộ, một của bào Gõ mõ, một của Xuân”. Người đi đưa đông đúc, sang trọng, nam nữ “chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau, bằng những vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma”...
Cảnh hạ huyệt
Ân tượng nhất là cảnh hạ huyệt. Cậu Tú Tân “bắt bẻ từng người một” để cậu chụp ảnh kỉ niệm lúc hạ huyệt; và các bạn của cậu “rầm rộ nhảy lên nhưng ngôi mả khác mà chụp để cho ảnh khỏi giống nhau”. Ông Phán mọc sừng thì vờ khóc thảm thiết để lén dúi vào tay Xuân “một cái giấy bạc năm đồng gấp tư”.
Tóm lại, đám tang diễn ra như một tấn đại hài kịch, nói lên sự lô' lăng, vô đạo đức của cái xã hội thượng lưu ngày trước.
Vũ Trọng Phụng mất khi chưa đầy 30 tuổi. Nhà văn Ngô Tất Tô' trước cái chết của Vũ Trọng Phụng, đã bàn luận về sự thọ yểu ở đời. Ông cho rằng, đối với con người ta thọ yểu không tính bằng tuổi tác, mà bằng những gì để lại mãi mãi cho đời. Nếu theo quan niệm ấy thì Vũ Trọng Phụng là người rất thọ. Vì những tác phẩm của ông, trong đó đặc biệt là tiểu thuyết “Số đỏ” sẽ còn sông mãi với đời.
c. Tổng kết
Bằng nghệ thuật trào phúng sắc bén, qua chương “Hạnh phúc của một tang gia”, Vũ Trọng Phụng đã phê phán mãnh liệt bản chất bất nhân, giả dối và sự lố lăng, đồi bại của xã hội “thượng lưu” ở thành thị những năm trước Cách mạng.	)
II. ĐỂ VĂN LUYỆN TẬP
Đề: Viết bình luận ngắn gọn về những chân dung biếm hoạ trong chương “Hạnh phúc của một tang gia” (trích tiểu thuyết “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng).
BÀI VIẾT GỢI ý
Nhà văn Thanh Thảo từng cho rằng, tác phẩm “Số đỏ” của Vũ Trọng Phụng có thể làm cho ta giật mình vì có thể tồn tại trong ta một “Xuân tóc xám, Xuân tóc trắng". Bởi thế, tác phẩm ra đời đêh nay đã gần bảy mươi năm nhưng xứng đáng được xem “Zờ cuốn tiểu thuyết có thể làm vinh dự cho văn học mọi thời đại" (Nguyễn Khải). Trong chương trình THPT, trích chương XV - “Hạnh phúc của một tang gia", phần nào giúp ta cảm nhận rõ những chân dung khó quên của xã hội thượng lưu tư sản.
Xoay quanh cái chết của cụ cô' Tổ, bộ mặt đám con cháu đại bất hiếu được nhà văn dựng lên với tất cả sự sắc sảo của “ông vua phóng sự đất Bắc”. Màn bi hài kịch bắt đầu ngay từ cách chữa bệnh cho chết với sự huy động hùng hậu của lang băm Đông, lang băm. Tây và cả thuốc thánh đền Bia “công hiệu đến nỗi làm cho người ta mất mạng”. Một cái chết được báo trước vì đó là thời điểm của một đám con cháu đua nhau hưởng lợi. Nhìn từ một góc khác, đó là dịp công nghệ lăng-xê phát huy hết công suất khi tang lễ là nơi khoe mốt “áo tang tân thời” của ông Typhn, tài chụp ảnh của cậu Tú Tân, huân huy chương và... râu của đám bạn cụ cô' Hồng và ông Văn Minh - con trai và cháu nội cụ cô' tổ. Những khuôn mặt cũng biểu cảm theo mốt: Cụ cô' Hồng “nhắm nghiền mắt mơ màng”, ông Văn Minh “đăm đăm chiêu chiêu", cô Tuyết vì vắng bạn giai mà “buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám”. Không khí đám tang là cao trào của sự bát nhầo “Tây, Tàu, Ta đủ cả”... mà với những câu văn tác giả nhắc nhở “Đám cứ đi” để người đọc khỏi nhầm, bởi người ta cứ ngỡ đám ma là đám hội ! Sự giả dối đến ghê tởm hiện hình ra từng câu vàn đặc tả chân dung cận cảnh, trung cảnh và toàn cảnh: Sau vẻ sang trọng của quan khách, người ta thấy bóng đáng đàn dê cụ với cặp mắt hau háu nhìn làn da trắng của cô Tuyết mà “cảm động hơn cả khi nghe tiếng kèn xuân nữ ai oán não nùng"-, sau những “giai thanh, gái lịch” tranh thủ “chim nhau" là âm thanh “uui vẻ ý nhị rất xứng đáng với tư cách của những người đưa đám”. Nhưng trâng tráo nhất là ông phán mọc sừng - kẻ gây ra cái chết của cụ cô' Tổ, hắn hãnh diện với nỗi nhục mọc sừng đã đem lại món lợi vài nghìn bạc, đến lúc hạ huyệt lại đóng màn kịch với tiếng khóc bất hủ “Hứt ! Hứt ! Hứt !” và dáng lả oặt cùng lúc tuồn “tờ giấy bạc năm đồng gắp tứ' để thanh lí hợp đồng với thằng Xuân tóc đỏ thật sòng phẳng. Tác giả đã ném vào trong tiếng cười toàn bộ sự khinh bỉ, ghê tởm của mình với toàn bộ “xã hội chó đểu” ấy.
Những chân dung ấy được phác lên để nhà văn lí giải cách thằng Xuân tóc đỏ ‘ma cà bông", “hạ lưu”, “nhặt ban quần” đường hoàng bước chân vào xã hội thượng lưu dâm và đểu ấy là hợp lí. Vì bản chất thật của nó phù hợp với bọn người đạo đức giả kia. Đó cũng là lời cảnh tỉnh của nhà văn về bọn người chỉ biết theo đuổi dục vọng xấu xa, đồng tiền nhơ bẩn.