Soạn bài Chí phèo

  • Chí phèo trang 1
  • Chí phèo trang 2
  • Chí phèo trang 3
  • Chí phèo trang 4
  • Chí phèo trang 5
  • Chí phèo trang 6
  • Chí phèo trang 7
  • Chí phèo trang 8
  • Chí phèo trang 9
  • Chí phèo trang 10
  • Chí phèo trang 11
  • Chí phèo trang 12
CHÍ PHÈO
Nam Cao
KIẾN THỨC Cơ BẢN
A. Giới thiệu
1. Nam Cao (1917 - 1951) tên khai sinh là Trần Hữu Tri, sinh trong một gia đình nông dân ở làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lí Nhân, tỉnh Hà Nam; nay là xã Hòa Hậu, huyện Lí Nhân, tỉnh Hà Nam.
Sau khi học xong bậc Thành chung (Trung học cơ sở), Nam Cao vào Sài Gòn kiếm sông. Nhưng chỉ ít lâu sau, vì bệnh tật, ông đành phải trở về quê hương. Một thời gian sau, Nam Cao được nhận làm “giáo khổ” ở một trường tư thuộc ngoại ô Hà Nội. Nhưng chỉ được một thời gian ngắn thì trường bị đóng cửa. Nam Cao buộc phải sông vất vưởng bằng nghề viết văn, làm gia sư.
Năm 1943, ông tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc tại Hà Nội. Bị địch khủng bố", Nam Cao phải về làng rồi tham gia cướp chính quyền ở phủ Lí Nhân (1945) và được bầu làm Chủ tịch xã. Sau đó, nhà văn được điều lên Hà Nội công tác ở Hội Văn hóa Cứu quốc.
Năm 1947, Nam Cao lên Việt Bắc làm công tác văn nghệ, tuyên truyền phục vụ kháng chiến.
Cuối năm 1951, trên đường vào công tác ở vùng địch hậu Liên khu Ba, ông bị giặc phục kích và sát hại gần bốt Hoàng Đan, tỉnh Ninh Bình.
Năm 1996, Nam Cao được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về vãn học - nghệ thuật. Đầu năm 1988, hài cốt của ông được chuyển về an táng tại “Vườn hiện thực”, xã Hòa Hậu, huyện Lí Nhân, tỉnh Hà Nam.
Sinh thời, Nam Cao là một con người khiêm nhường ít nói, nhưng có một đời sống nội tâm phong phú. Ông thường nghiêm khắc đấu tranh với chính mình, vươn tới một cuộc sông tô't đẹp. Đây còn là nhà văn có sự gắn bó sâu nặng với quê hương và những người nghèo khổ.
Nam Cao là một trong số những nhà vàn luôn có quan điểm nghệ thuật tiến bộ và có sự nhất quán cao giữa quan điểm nghệ thuật và sự nghiệp sáng tác.
+ Những tác phẩm chính của Nam Cao trước Cách mạng là các truyện ngắn: “Chí Phèo”, “Lão Hạc”, “Một bữa no”, “Đời thừa”, “Trăng sáng”-, truyện vừa “Truyện người hàng xóm” và tiểu thuyết “Sống mòn”.
Qua những sáng tác của Nam Cao có thể nhận thấy: Ông luôn luôn quan tâm đến thế giới tinh thần của con người; trong đó đặc biệt là vấn đề nhân phẩm, nhân cách. Ông có sở trường phát hiện và miêu tả tâm lí nhân vật. Kết cấu truyện của Nam Cao cũng hết sức phóng túng mà vẫn lôgic, chặt chẽ.
+ Sau Cách mạng, Nam Cao sớm có những tác phẩm đặc sắc tiêu biểu cho nền văn xuôi thời kì đầu kháng chiêh chông Pháp, như “Đôi mắt”, nhật
kí “Ở rừng” và “Chuyện biên giới”.
Truyện ngắn “Chí Phèo” nguyên có tên là “Cái lò gạch cũ”', khi in thành sách lần đầu (NXB Đời mới, Hà Nội, 1941), nhà xuất bản tự ý đổi tên là “Đôi lứa xứng đôi”. Đến khi in lại trong tập “Luống cày” (Hội Văn hóa Cứu quốc xuất bản, Hà Nội, 1946), tác giả đặt lại tên là “Chí Phèo".
“Chí Phèo” là một kiệt tác trong văn xuôi Việt Nam hiện đại. Đây là một truyện ngắn có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc, mới mẻ, chứng tỏ trình độ nghệ thuật già dặn, điêu luyện của nhà vãn.
Đoạn trích là phần cuối của truyện ngắn “Chí Phèo", kể về nhân vật Chí Phèo từ sau đêm gặp Thị Nở nơi vườn chuôi.
B. Đọc - Hiểu văn bản
Nhăn vật Chí Phèo
Trước đoạn trích, tác giả kể về cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên của Chí Phèo và Thị Nở. Lúc đầu, nhân vật này hấp dẫn Chí Phèo vì đơn giản: thị là... đàn bà, còn Chí là thằng đàn ông say rượu, “ngứa ngáy” thịt da, trong một đêm rười rượi những trăng, có “những tàu chuối nằm ngửa, ưỡn cong cong lên hứng lấy trăng xanh rời rợi như là ướt nước, thỉnh thoảng bị gió lay lại giãy lên dành đạch như là hứng tình”... Hai người ân ái với nhau. Thế rồi, nửa đêm Chí Phèo đau bụng nôn mửa. Sau đó, Thị Nở dìu Chí vào nhà, rồi đi “nhặt nhạnh tất cả những manh chiếu rách đắp lèn cho hắn”.
Sáng hôm sau, Chí Phèo tỉnh dậy khi “trời đã sáng lâu”. Và kể từ khi mãn hạn tù trở về, đây là lần đầu tiên con quỷ dữ của làng Vũ Đại hết say, hoàn toàn tỉnh táo. Chí thấy lòng “bâng khuâng”, “mơ hồ buồn”. Và lần đầu tiên Chí nghe thấy bản nhạc rộn ràng của cuộc sông lao động: “Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá ! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá” và anh ta còn nghe rõ cuộc trò chuyện của những người đàn bà đi buôn‘vải ở Nam Định về. “Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có. Nhưng hôm nay hắn mới nghe thấy..."', vì chỉ đến hôm nay hắn mới hoàn toàn tỉnh táo. Những âm thanh ấy chính là tiếng gọi tha thiết của cuộc sông.
Vậy, điều gì đã làm cho con người triền miên trong cơn say, sáng nay lại hoàn toàn tỉnh táo? Vì cuộc gặp gỡ với Thị Nở, điều ấy đã rõ, nhưng chưa đủ. Nam Cao là cây bút hiện thực có chiều sâu, mỗi sự thay đổi của nhân vật đều được ông lí giải một cách thuyết phục. Ớ đây, không thể bỏ qua vai trò của trận ôm. Chính Nam Cao viết, trận ốm đã góp phần làm “thay đổi về sinh lí, cũng làm thay đổi cả tâm lí của Chí Phèo".
Khi tỉnh táo, Chí Phèo nhìn lại cuộc đời mình cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Trước hết, hắn nhớ lại những ngày “rất xa xôi”, “hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê. Vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Mộng ước của hắn thật bé nhỏ, giản dị, nhưng cũng thật chua xót, suốt bao năm nó vẫn chưa trở thành hiện thực.
Đấy là quá khứ. Còn hiện tại? Hiện tại của hắn thật đáng buồn. Buồn vì Chí Phèo thấy mình đã già, “đã tới cái dốc bển kia của cuộc đời”, “cơ thể đã hư hỏng nhiều”, thế mà hắn vẫn đang “cô độc”.
Còn tương lai? Tương lai lại đáng buồn hơn, bởi hắn có ba sự bất hạnh: “đói rét và ốm đau, và cô độc". Đối với Chí Phèo, cô độc còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau.
Từ khi đi tù về, Chí Phèo “bao giờ củng say”, “say vô tận”. Vì thế hắn sống như vô thức, “hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dữ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiều dân làng [...]. Hắn biết đâu vì hắn đã làm tất cả những việc ấy trong khi người hắn say”. Giờ đây, lần đầu tiên hắn tỉnh táo suy nghĩ nhận thấy tình trạng bi đát tới tuyệt vọng của cuộc đời mình.
Đúng lúc Chí Phèo đang “vẩn vơ nghĩ mãi”, thì Thị Nở mang “nồi cháo hành còn nóng nguyên” vào. Hắn thấy cháo hành của Thị Nở thơm ngon lạ lùng ! “Chỉ khói xông vào mũi củng đủ làm người nhẹ nhõm". Thì ra, đối với Chí Phèo, bát cháo hành của Thị Nở không chỉ là bát cháo hành bình thường, mà trong đó còn hàm chứa cả tình yêu thương chân thành thị dành cho hắn. Và như vậy, cũng có nghĩa là hàm chứa cả hạnh phúc lứa đôi, gia đình giản dị mà lần đầu tiên Chí có được.
Khi ăn bát cháo hành từ tay Thị Nở, Chí Phèo trở lại là anh canh điền ngày xưa và thấm thìa nỗi đau của con người tự trọng buộc phải làm những việc nhục nhã theo sự điều khiển của vợ ba Bá Kiến. Như vậy, rõ ràng Chí Phèo có bản tính tốt lành, nhưng cái bản tính này trước đây bị lấp đi đến nay mới gặp cơ hội thể hiện.
Vậy, vì đâu bản tính tốt ấy lại được thể hiện? Là cây bút hiện thực nghiêm ngặt, Nam Cao đã giải thích điều ấy một cách thuyết phục:
+ Chí Phèo vốn là người nông dân lương thiện, có bản tính tốt đẹp. Xã hội tàn ác (đại diện là Bá Kiến và nhà tù thực dân) dẫu có ra sức hủy diệt bản tính ấy, nhưng nó vẫn âm thầm sống trong đáy sâu tâm hồn Chí Phèo, ngay cả khi nhân vật này tưởng chùng như đã bị biến thành quỷ dữ.
+ Khi gặp Thị Nở và cảm nhận được tình yêu chân thành của thị trong hoàn cảnh vừa qua một trận ôm, bản chất ấy có cơ hội hồi sinh và nó đã hồi sinh. Từ đây, Chí Phèo sông đúng với con người thật của mình.
Tình yêu mộc mạc, thậm chí thô lỗ của người đàn bà xấu xí ấy chẳng những khiến cho Chí Phèo thức tỉnh mà còn tạo điều kiện cho nhân vật này hòa nhập với mọi người, chấm dứt đoạn đời thú vật để sống đúng với cuộc sốhg của con người.
Nhưng, sự mong ước được sống lương thiện của Chí Phèo một lần nữa lại không thành sự thật. Thị Nở không thể giúp gì thêm cho hắn. Bởi lẽ bà cô thị kiên quyết ngăn cản mối tình này. Bà không thể đồng ý cho cháu bà “đâm đầu” đi lấy thằng Chí Phèo - con quỷ dữ của làng Vũ Đại, bấy lâu nay chỉ có mỗi một nghề “rạch mặt ăn vạ”. Mặc dù, nghe những lời bà cô mắng, Thị Nở thấy “lộn ruột” (tức là thấy vô lí, uất ức), nhưng cũng phải nghe theo. Và thị đã giận dữ nói lại với Chí Phèo “tất cả lời bà cô”. Điều ấy khiến Chí “ngẩn người” vì thất vọng, nhưng lúc này, có lẽ hắn chưa đến nỗi tuyệt vọng, “hắn lại như hít thấy hơi cháo hành”. Khi thị ra về, “hắn đuổi theo thị, nắm lấy tay”. Như vậy, chứng tỏ Chí khao khát tình yêu, thiết tha với Thị Nở - đến với cuộc đời lương thiện biết chừng nào !
Khi thấy không có cách gì níu giữ được Thị Nở, tình yêu bị tan vỡ, Chí Phèo rơi vào tình thế tuyệt vọng. Chí thấm thìa sâu sắc bi kịch tinh thần của con người sinh ra làm người, nhưng lại không được làm người. Chí vật vã, đau đớn. Tuyệt vọng nên hắn lại uống rượu. Nhưng thật lạ, hôm nay hắn “càng uống lại càng tỉnh ra”. Nói cho chính xác hơn là tuy say, nhưng trong thẳm sâu tâm hồn, nhân vật này vẫn ý thức rất rõ về nỗi đau thân phận. Vì thế, “hắn ôm mặt khóc rưng rức” và luôn “thoang thoảng thấy hơi cháo hành”. Chi tiết này được nhà vãn nhắc đi nhắc lại nhằm tô đậm niềm khát khao tình yêu thương và nhất là bi kịch tinh thần của Chí. Trong cơn khủng hoảng và bế tắc, Chí càng thấm thìa hơn tội ác của kẻ đã cướp đi bộ mặt và linh hồn con người của mình. Chí đã xách dao ra đi. Đến nhà Bá Kiến, Chí trợn mắt, chỉ tay vào mặt lão, đanh thép kết tội tên cáo già này và đòi “làm người lương thiện”, đòi lại bộ mặt lành lặn. Như vậy, Chí đã hành động như một người tỉnh táo với những suy nghĩ sâu sắc. Thế rồi, Chí đâm chết kẻ thù và giết chết cuộc đời mình.
Hành động của Chí vượt khỏi suy nghĩ của tên địa chủ nổì tiếng khôn ngoan, gian hùng, mặc dù trước đó, Chí không định đến nhà Bá Kiêh. Nhưng đây rõ ràng không phải là việc làm thiếu suy nghĩ. Thực ra, Chí hiểu khá rõ về tên cường hào này. Đâu phải vô cớ vừa mới đi tù về, Chí đã xách vỏ chai đến nhà hắn rạch mặt ăn vạ. Đâu phải vô cớ hắn lại ngật ngưỡng đến nhà cụ bá để “đòi nợ”. Tuy làm tay sai cho Bá Kiến, nhưng ngọn lửa căm hờn vẫn âm ỉ cháy trong Chí Phèo. Đặc biệt nó càng bùng lên dữ dội khi anh ta đã thức tỉnh, hiểu rõ nguồn gốc bi kịch của mình. Do đó, Chí Phèo đâm chết Bá Kiến. Hành động này của Chí không hẳn vì say rượu mà chính vì mối thù đã bùng cháy.
Cái chết của Chí Phèo cũng là tất yếu. Việc nhân vật này tự sát cũng không phải là hành động mù quáng do hơi men mang đến. Trước hết đấy là một bi kịch. Chí đã thức tỉnh, tức là anh không thể đập phá, chém giết như trước được nữa. Chí muôn lương thiện, nhưng ai cho Chí lương thiện? Kẻ thù của Chí đâu phải chỉ có một mình Bá Kiến mà là cả cái xã hội thối nát và độc ác đương thời. Bởi vậy, tất yếu Chí phải tìm đến cái chết. Chỉ có cái chết mới giúp cho nhân vật này thoát khỏi kiếp sông của quỷ dữ. Trước đây, để tồn tại, Chí Phèo phải bán bộ mặt người, linh hồn người cho quỷ dữ. Đến nay, khi linh hồn đã trở về, Chí Phèo phải đổi cả sự sông của mình. Như vậy, rõ ràng đốì với Chí Phèo, niềm khao khát được sống lương thiện cao hơn cả tính mạng. Vì vậy, cái chết của Chí Phèo có ý nghĩa tố cáo cái xã hội thực dân nửa phong kiến không những đẩy những con người nông dân lương thiện vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa mà còn đẩy họ vào chỗ chết.
Qua kết cục bi thảm của Chí Phèo, người đọc có thể nhận thấy cảm quan hiện thực sâu sắc của nhà văn Nam Cao: Tình trạng xung đột giai cấp ở nông thôn Việt Nam khi đó là hết sức gay gắt và nó chỉ có thể được thanh toán bằng giải pháp quyết liệt.
Như vậy, bằng đoạn văn này, Nam Cao đã thể hiện tư tưởng nhân đạo độc đáo, mới mẻ: Phát hiện, miêu tả phẩm chất tốt đẹp của người nông dân khi tưởng như họ đã bị xã hội thực dân nửa phong kiến tàn ác biến thàĩịh thú dữ. Điều này đã tạo nên giá trị đặc sắc cho đoạn trích nói riêng và cho toàn bộ tác phẩm “Chí Phèo” nói chung.
về mặt nghệ thuật của đoạn trích
Thành công đáng lưu ý nhất của Nam Cao qua đoạn trích này là việc khám phá, miêu tả thế giới nội tâm để khẳng định bản chất tốt đẹp của nhân vật. (Tiêu biểu nhất là việc khắc hoạ tâm lí của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở và tình yêu của Chí bị Thị Nở khước từ).
Ớ đây, cốt truyện và các tình tiết đều hấp dẫn. Phần lớn các sáng tác của Nam Cao thường hầu như không có cốt truyện, tình tiết không mấy hấp dẫn. Nhưng truyện “Chí Phèo” không thuộc loại đó. Tác phẩm này cốt truyện rất hấp dẫn, tình tiết đầy kịch tính và luôn biến hoá, càng về cuối càng gay cấn với những tình tiết dữ dội, quyết liệt, bất ngờ.
Cách trần thuật linh hoạt, phóng túng (lúc thì trần thuật theo quan điểm tác giả, lúc thì trần thuật theo nhân vật Chí Phèo, khi lại trần thuật theo nhân vật Thị Nở,...) rất phong phú, linh hoạt; nhờ đó, tạo nên những giọng điệu đan xen lẫn nhau hấp dẫn người đọc.
c. Tổng kết
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã làm sáng lên chuỗi ngày tăm tối của Chí Phèo. Tình yêu của người dàn bà khốn khổ này đã góp phần làm cho bản chất lương thiện trong Chí Phềo thức tỉnh. Trong tuyệt vọng, bể tắc, Chí Phèo đã đâm chết Bá Kiến và tự kết kiều cuộc đời mình.
Khắc họa sinh động quá trình thức tỉnh này bằng bút pháp miêu tả tâm lí sắc sảo, Nam Cao đã khẳng định mạnh mẽ bản chất tốt dẹp của người lao động, ngay khi tưởng chừng họ đã bị xã hội tàn bạo biến thành quỷ dữ.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Để; Phân tích tác phẩm "Chí Phèo" của Nam Cao.
Những vấn đề cần triển khai về truyện ngắn "Chí Phèo"-.
Bi kịch không được làm người lương thiện, bị hủy hoại cả nhân tính lẫn nhân hình.
Bá Kiến: Tội ác với những thủ đoạn thâm độc, tinh vi.
Chí Phèo: Nhân vật không tính cách, bi kịch xuất hiện khi gặp Thị Nở.
Thị Nở: Khát vọng tình yêu hạnh phúc -> làm người ("người đàn bà đẹp trong lốt xấu xí" - hiện thân của khát vọng.)
Xung đột mang ý nghĩa điển hình, cuộc đấu tranh xã hội không khoan nhượng.
Tâm hồn nhân hậu của Nam Cao và thái độ bi quan trước hiện thực của nhà văn.
BÀI VIẾT GỢI ý
Tiếng chửi của một thằng say đã mở đầu cho thiên truyện ngắn đặc sắc "Chí Phèo" của Nam Cao. Nhà văn đã mở ra một cuộc đời đầy bi kịch của một Chí Phèo - thù hận với tất cả: cuộc đời - xã hội - con người và ngay cả bản thân, một Chí Phèo triền miên trong những cơn say, mất cả lương tri, trên hành trình dài đằng đẵng của một kiếp sông không ra sông, trong không gian tăm tôi ngột ngạt của xã hội Việt Nam đêm trước của Cách mạng. Nhà văn đã dẫn dắt người đọc vào một cuộc đời đau khổ và kết thúc trong cái vòng luẩn quẩn, bế tắc. Để khi gấp trang sách lại, trái tim mỗi người vẫn còn thổn thức những buồn thương, đau đớn trước bi kịch khó tin của những người không được làm người lương thiện trong xã hội cũ.
Sức hấp dẫn của tác phẩm không chỉ do tài năng của Nam Cao đã tạo dựng được cốt truyện theo kết cấu rất hiện đại, mà trước hết xuất phát từ sự quan tâm sâu sắc của nhà văn với đồng loại của mình. Đằng sau lối kể chuyện lạnh lùng, tỉnh táo là cả một trái tim nhân hậu, đằm thắm đốĩ với người nông dân - những người sống cùng tác giả. Những vấn đề Nam Cao đề cập trong tác phẩm đâu chỉ là cái nhìn sắc sảo, cách phân tích hiện thực tinh tế, mà còn gắn với quan niệm của nhà văn về cuộc sống, sáng lên tình cảm gắn bó, yêu thương, trân trọng tất cả những giá trị cao đẹp gắn với con người.
Ánh sáng của tình người nhân hậu ấy đã giúp nhà văn phát hiện ra nguyên nhân của những tấn bi kịch đời người trong xã hội cũ, thắp sáng lên khát vọng mãnh liệt muôn trở về cuộc sống lương thiện. Nhưng trong bóng đêm dày đặc của xã hội cũ, ánh sáng ấy đã tắt ngấm với bao buồn thương, bế tắc, trước khi ánh sáng của một ngày mới bừng lên quét sạch bóng đêm. Tuy vậy, ngọn lửa của khát vọng làm người vẫn âm ỉ nhức nhối trong từng câu chữ Nam Cao.
Bi kịch của Chí Phèo chỉ thật sự bắt đầu cùng với lần tỉnh rượu đầu tiên của nhân vật, chứa đựng tất cả sóng gió đi qua cuộc đời Chí Phèo, sau đêm trăng huyền thoại - cái đêm "trăng rắc bụi trên sông và sông gợn biết bao nhiêu vàng" - đã đem đến cho Chí một người đàn bà đích thực trong cái lốt xấu xí "ma chê, quỷ hờn"-. Thị Nở.
Cùng với ánh sáng cuả một ngày mới, lần đầu tiên Chí Phèo nhận biết được những âm thanh đời thường: "Tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá ! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá”. Cả một đoạn văn được viết bằng giọng điệu trữ tình tha thiết đã khắc họa rõ nét sự hồi sinh của tâm-hồn-người trong con-quỷ-dữ của làng Vũ Đại thật cảm động. Một cảm-giác-người đã thức tỉnh lí trí, nôi kết quá khứ với hiện tại, một thời yên bình xa xưa và trước mắt là tuổi già, đói rét và ốm đau, và cô dộc.
Hiện tại lay thức lương tâm thành tiếng thở dài não nuột "Chao ôi là buồn!". Một nỗi buồn đáng quý, bởi nó đã khơi lại những giấc mơ giản dị của một thời lương thiện: "Hình như có một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải, chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm". Chao ôi là buồn ! Vì mãi mãi cái ước mơ về hạnh phúc nhỏ nhoi ấy không bao giờ thành hiện thực, bởi bàn tay tội ác của những kẻ như Bá Kiến đã tước đoạt vĩnh viễn con-người-lương thiện của Chí ngày xưa. Nhưng trong hình hài quỷ dữ, vẫn ẩn náu giấc mơ ngày nào, dù chỉ nhớ lại một cách lờ mờ "hình như.." cũng đủ khẳng định cho sức phản kháng của lương thiện trước tội ác. Để khi hồi sinh thì không thể nào các thế lực hắc ám có thể bóp chết được lương tâm bé bỏng ấy.
Phút lóe sáng của tâm hồn đã giúp nhân vật ý thức nỗi đau của một kẻ cô đơn giữa đồng loại của mình: "Chí Phèo hình như đã trông thấy trước tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cô độc, cái này còn đáng sợ hơn đói rét và ốm đau". Nam Cao đã diễn tả đặc sắc và độc đáo giờ phút bừng thức của nhân vật, bằng lối văn đặc tả sự "bâng khuâng" trong tâm hồn Chí Phèo. Phút ban đầu ấy, quá khứ mơ hồ, hiện tại mơ hồ, tương lai mờ mịt đều nằm trong hai chữ "hình như...". Ớ đó le lói ngọn lửa của một trái tim Người.
Thị Nở xuất hiện cùng nồi cháo hành đã thổi bùng ngọn lửa mong manh ấy, đem đến cho trái tim Chí Phèo những nhịp đập đầu tiên của cảm giác tình yêu. Ngòi bút phân tích tâm lí của Nam Cao hết sức tinh tế và nhạy cảm khi mô tả quá trình về lại với cõi người của Chí Phèo: Bắt đầu từ ranh giới mong manh "hình như mắt ươn ướt" như một tiếng khóc chào đón cuộc đời mới, cho đến khi Chí Phèo gặp nụ cười Thị Nở là lúc tình yêu bắt đầu lên tiếng - giúp nhân vật ý thức đầy đủ về quãng đời đã qua. Bát cháo thứ nhất là ý thức về Tình Yêu và Dục Vọng. Bát cháo thứ hai là niềm sám hối về tội ác, mở ra khát khao hướng thiện mãnh liệt "Trời ơi, hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao ! Thị Nở sẽ mở đường cho hắn". Cùng với niềm khát khao ấy, Chí Phèo đã trở lại với bản chất của anh Chí ngày xưa: hiền lành, lương thiện. Con đường trở về được hứa hẹn bằng nụ cười tin cẩn của Thị Nở, làm nở ra nụ cười Chí Phèo. Từ tiếng khóc đến nụ cười, Chí Phèo đã thật sự vươn dậy cùng khát vọng làm người.
Tình yêu và niềm tin mà Chí Phèo có được bắt đầu từ Thị Nở - nhân vật đẹp nhất của tác phẩm. Có thể những chi tiết mô tả ngoại hình Thị Nở làm nguời đọc nhớ nhiều và ấn tượng mạnh về người đàn bà nhan sắc xấu nhất trong lịch sử văn học. Và những kẻ vô tâm, chỉ quan tâm hình thức câu khách rẻ tiền mà thờ ơ trước nỗi đau đồng loại mới cười cợt, gán ghép cho tác phẩm cái tên gọi sông sượng "Đôi lứa xứng đôi". Người đàn bà Nam Cao tạo ra để ban tặng cho Chí Phèo để giúp hắn trở lại làm người nếu là một mĩ nhân thì mới là điều lạ. vẻ đẹp của Thị Nở không nằm trong hình thức mà bộc lộ ngay trong những nét "dờ hơi” ngược với quan niệm xã hội.
Người đàn bà đó có đủ đức tính của một người tình tuyệt vời, một người vợ tảo tần và có trái tim người mẹ bao dung, độ lượng. Trong cuộc gặp gỡ tình yêu Thị Nở - Chí Phèo, Nam Cao đã lột tả những vẻ đẹp ấy thông qua những chuyển biến tâm trạng Chí Phèo: Người đàn bà đích thực, đốì lập với "con quỷ cái" bà Ba, "hắn muốn làm nũng thị như vái mẹ". Thị Nở có đầy đủ phẩm chất của một người bình thường, biết lo toan, thương hại, có phút "lườm", "e lệ" trong cảm giác tình yêu, và trên tất cả là tiếng cười tin cẩn như một phép màu giải thoát cho con người thoát ra mặc cảm tội lỗi. Có thể nói Nam Cao đã xây dựng nhân vật Thị Nở bằng bút pháp hiện thực trữ tình để gửi gắm niềm tin của chính ông vào bản chất hướng thiện của con người. Thực tế trong đời có lẽ khó kiếm ra người nào hội tụ những cái xâu nhường ấy và đẹp nhường ấy. Nhưng cuối cùng Thị Nở vẫn phải trở về với mảnh đất hiện thực - nơi Thị có một bà cô già năm mươi tuổi chưa chồng, để được nghe lời phán xét tương lai cho mối tình Chí Phèo - Thị Nở. Nhân vật vẫn không có phép màu như trong cổ tích để có thể kéo hẳn Chí Phèo ra khỏi hình hài lốt quỷ để hoà nhập vào cuộc sông thân thiện của loài người, bởi bản thân Thị Nở cũng bị cả xã hội kia xem như "con vật ghê tởm nhất". Ta chợt nhận ra cái gọi là hạnh phúc ở đời không dành sẵn cho những người như Chí Phèo - Thị
Nở, đó là thông điệp đầy phẫn uất của Nam Cao. Tuy căm ua't dâng tràn nhung vẫn phải cố nén xuống trong giọng văn tỉnh rụi - bản lĩnh nhà vãn đã không để ông can thiệp vào sô' phận nhân vật của mình một cách thô bạo. Nam Cao muôn những nguời đọc có lương tri phải thấu hiểu những khoảnh khắc xung đột của Thị Nở, của Chí Phèo sau giờ phút "thị trút vào mặt hắn nguyên vẹn lời bà cô". Đó là khoảnh khắc nẻo về của Chí đã bị chặn đứng bởi những định kiến xã hội về một con người đã có quá nhiều vết đen trong quá khứ - một kẻ "không cha không mẹ", chỉ có mỗi một "nghề rạch mặt ăn vạ". Đôi khi những định kiến thật tàn nhẫn, nó tước đoạt cơ hội cuối cùng của Chí Phèo trở lại cuộc sôìig bình thường.
Trong giờ phút tột cùng đau đớn của một người tuyệt vọng, nhà văn đã để nhân vật có những khoảnh khắc tâm trạng thật khó quên: "Hắn ngẩn người ra rồi chợt hiểu", "hắn sửng sốt đứng lèn gọi Thị lại..". Chỗ dựa cuối cùng để Chí tưởng có thể đứng vững trên hành trình trở lại cõi người giờ đây không còn nữa ! Ta có thể nhận ra nỗi bàng hoàng đến ê chề của Chi. Tất cả đều sụp đổ, hắn trở về với cuộc sông đầy bóng tối của mình. Nhưng điều không bình thường là ngay trong giờ phút ấy, "hắn thoáng hít thấy hơi cháo hành" - hơi cháo tình người đích thực mà Chí đã được ban tặng từ Thị Nở.
Lại rượu, lại say, Chí muôn mượn rượu để quên đi thực tại, trở về với cuộc sống u mê lẫn lộn thật - giả, tốt - xấu, trắng - đen, thiện - ác của loài quỷ dữ. Nhưng lương tri đã hồi sinh. Hơi cháo hành cứ lẫn cùng men rượu. Tiếng khóc bật ra: "Hắn ôm mặt rưng rức khóc". Chưa khi nào, Chí lại phải chịu đựng sự giằng xé của lương tâm dữ dội như vậy. Chí đang phải đô'i diện với chính mình, trong sự phán xét nghiêm khắc của lương tâm.
Tưởng chừng tội ác đã thắng thế khi trong hơi rượu, Chí lại xách dao ra đi, miệng lảm nhảm ý định "đâm chết cả nhà con đĩ Nở". Nhưng hơi cháo hành đã quyện vào trong tâm hồn Chí, để giờ đây, tội ác không còn có thể sai khiến được hành động của anh. Phần người còn lại đã chiến thắng chất quỷ dữ, để sau bao nhiêu nãm lầm lỡ, giờ đây Chí nhận rõ mặt kẻ thù, hành động có vẻ vô thức đã báo hiệu cho một tiềm thức sâu thẳm của người lương thiện trong Chí. Con quỷ dữ đích thực đã tước đoạt cả nhân tính lẫn nhân hình của Chí là Bá Kiến.
Bản lĩnh của một nhà vãn và khả năng nhận thức sâu sắc thực tại xã hội đã giúp Nam Cao phác họa chân dung của giai cấp bóc lột một cách đầy đủ nhất so với các nhà văn đương thời. Bá Kiến được đặt vào một vị trí trang trọng trong xã hội, khi nhà văn phác họa nên một lai lịch của một kẻ già đời trong nghề bóc lột: Gia đình bôn đời làm tổng lí, bản thân Bá Kiến từng là lí trưởng, chánh tổng; cha truyền con nốì trong thủ đoạn đè đầu, cưỡi cổ người khác. Những kẻ như thế, vẫn được gọi bằng ông, bằng cụ một cách tôn kính. Uy quyền của Bá Kiến không phải chỉ bó hẹp trong phạm vi của một làng, mà "cụ Bá" là "bá hộ, tiên chỉ, chánh hội đồng kì hào, huyện hào, Bắc Kì nhân dân đại biểu " - đại biểu cho cả một bộ máy thông trị tay sai thực dân. Một nhân vật như thế, không thể là một kẻ hợm hĩnh và ngu dốt như Nghị Quế {“Tắt đèn” - Ngô Tất Tô') hay chỉ có tàn bạo và tham lam như Nghị Lại {“Bước đường cùng” - Nguyễn Công Hoan).
Nam Cao đã phác họa bản chất Bá Kiến bằng những chi tiết khó quên từ bên ngoài đến bên trong: Cụ Bá có tiếng quát “rất sang” để "nắn gân người khác", có kiểu cười Tào Tháo giòn giã và "bản thân cụ củng tự hào hơn đời cái tiếng cười ấy". Bên trong vẻ sang trọng là một con quỷ dầm ô, có tới bôn bà vợ mà còn đi cướp vợ người - khi còn làm lí trưởng đã không bỏ lỡ cơ hội ve vãn vợ Binh Chức. Nhưng điều nguy hiểm nhất ở Bá Kiến là tội àc đã được hắn nâng lên thành một nghệ thuật cai trị kẻ khác: "Mềm nắn, rắn buông", "dùng thằng đầu bò trị thằng đầu bò", "nắm lấy đứa có tóc", đặc biệt là những thủ đoạn rất nham hiểm: "Hãy vất người ta xuống sông rồi hãy vớt nó lên để cho nó đền ơn, hãy đập bàn, đập ghê' đòi cho được năm đồng, nhưng được rồi hãy vắt trả lại năm hào vì "thucmg anh túng quá"". Chưa một nhà văn nào lại giúp người đọc hình dung ra tội ác đáng sợ đến ghê tởm như Nam Cao. Với tất cả các thủ thuật trị người ấy, Bá Kiến quả là một kẻ "khôn róc đời" và đã phá tan cơ nghiệp của biết bao gia đình, đập nát hạnh phúc của bao nguời. Đáng sợ nhất là chính những nạn nhân của Bá Kiến lại bị hắn biến thành công cụ đắc lực của tội ác: Năm Thọ, Binh Chức - với bản tính lưu manh, và đỉnh điểm là Chí Phèo - đã thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Để Chí Phèo đến nhà Bá Kiến vào chính giờ phút "cụ Bá" đang ghen với lũ trai trẻ vì "bà Tư phốp pháp, hai má hây hây.." và cụ đang có ý định "bỏ tù hết mẩy thằng trai trẻ", đoạn văn quả có thể làm chúng ta bật cười vì sự ghen tuông của một ông lão đã ngoài sáu mươi, nhưng ta bỗng giật mình vì chứng tích của sự ghen tuông đáng buồn cười ấy bỗng hiện ra: Một thằng điên, một thằng say, một con quỷ dữ của làng Vũ Đại, sẵn sàng đâm chém bất cứ ai - ngày xưa nó cũng là một thằng trai trẻ...
Tình huốhg tất yếu phải xảy đến đã được Nam Cao dày công chuẩn bị cho nhân vật của mình. Khi sự thâm hiểm và tàn bạo đã bị bóc trần, khi những tiếng cười và tiếng quát rất sang của cụ Bá không còn nắn gân người khác như mọi khi đuợc nữa, đó cũng là khoảnh khắc thức tỉnh lương tri của một con người. Chí Phèo trong cơn say có những hành động thật đáng sợ. Nhưng có một điều, tiếng nói vang lên "dõng dạc" lại là của một con người hoàn toàn tỉnh táo, của một anh Chí đang đòi lại quyền "làm người lương thiện" đã bị bọn cường hào như Bá Kiến tước đoạt. Sự thật được nói lên, khiến Bá Kiến phải run sọ, "dịu giọng” để lảng tránh. Mặt nạ rơi xuống, Bá Kiến hiện nguyên hình là con quỷ dữ nham hiểm và hèn nhát đang cô' trốn chạy sự trừng phạt của lương tri thức tỉnh. Nam Cao đã để cho Chí trong giờ phút ấy cất lên những lời đau đớn: "Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào để mất những vết mảnh chai trên mặt này?". Đó là nỗi đau đớn của một người đã bị chặn mất nẻo về với thế giới thân thuộc của Con Người, bởi những định kiến khắt khe của xã hội. Muôn trở về, Chí "chỉ còn một cách" là giết chết con quỷ dữ trong chính anh. Giờ phút Chí vung dao lên kết liễu đời Bá Kiến là hành động tất yếu phải xảy đến, sau đó chính anh phải tự sát đã là một câu trả lời của Nam Cao giải đáp rõ nguyên nhân bi kịch của người nông dân nghèo trong xã hội cũ - sự bế tắc, quẩn quanh vẫn đè nặng lên cuộc sống của họ.
Không dừng lại sau hành động nhân vật đâm chết kẻ thù và tự hủy chính mình, Nam Cao đã dành khúc vĩ thanh để nói lên thái độ của mọi người sau hai cái chết bất ngờ. Cuộc sống vẫn tiếp diễn, những phe cánh cường hào hí hửng vì loại được đối thủ mạnh mà không tôn công, đổ sức. Cũng có nghĩa là làng Vũ Đại vẫn như xưa, vẫn cái cảnh đám cường hào chức dịch "hè nhau bóc lột con em đến tận xương tủy và nhè từng chỗ hở của nhau để trị". Một màu xám ảm đạm vẫn bao trùm lên cuộc sông, nó khiến những người lương thiện phải lo âu "tre già măng mọc, thằng ấy chết, còn thằng kh ác...". Và như vậy, cái chết của Chí Phèo - Bá Kiến thật vô nghĩa.
Nhưng vẫn có một người nghĩ khác mọi người: Thị Nở. Chỉ có mình Thị còn lóe lên trong tâm tư hình ảnh của một con người "hiền như đắt". Suy nghĩ ấy như một niềm an ủi cho vong linh Chí Phèo, ít ra cũng còn có một người thừa nhận anh là người trong thẳm sâu lốt quỷ. Người ta chỉ thật sự chết khi bị cuộc đời lãng quên, chối bỏ. Chí vẫn sống trong tâm hồn người đàn bà đích thực của cuộc đời anh. Có thể nhận ra ở chi tiết này thái độ chiêu tuyết cho nhân vật của chính Nam Cao, là niềm tin vào sự bất diệt của chất người sẽ không bao giờ bị hủy diệt.
Chi tiết cuô'i cùng của tác phẩm lại là hình ảnh "cái lò gạch củ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người qua lại.." là một ám ảnh về nỗi buồn nhân sinh của Nam Cao. Nơi đó, thằng bé Chí đã từng bị vứt vào đời, bị cuộc đời chối bỏ. Trong cái nhìn của Nam Cao, chứa đựng triết lí nhân sinh sâu sắc: Nếu không thay đổi thực tại, sẽ lại tiếp tục những bi kịch quẩn quaxih không lối thoát của con người. Thị Nở có thể chấp nhận Chí Phèo, nhưng không thể đốì mặt với thành kiến, với tập tục của làng xã. Bi kịch chửa hoang phải bỏ làng đi của con gái Tự Lãng vẫn còn đó. Cái lò gạch cũ là chứng tích của bao sô' phận bất hạnh, như là bản cáo trạng về một xã hội thù địch với những khát vọng làm người lương thiện, không thừa nhận tình người, tình yêu vượt qua khuôn phép. Nam Cao đã kết thúc tác phẩm bằng nỗi buồn dằng dặc của những kiếp người mà ngay lúc ra đời đã là một sự vô nghĩa lí. Trong hoàn cảnh hiện thực lúc bấy giờ, chúng ta không thể trách thái độ bi quan của nhà văn trước hiện thực. Nhưng bản thân sự việc ấy đã gợi lên suy nghĩ nung nấu trong lòng độc giả về sự cần thiết phải thay đổi hoàn cảnh để tránh cho con người khỏi sa vào vòng luẩn quẩn. Đó cũng là ý nghĩa xã hội tích cực của tác phẩm “Chí Phèo”.
Đọc “Chí Phèo”, ta càng trân trọng tấm lòng đối với con người của nhà vãn Nam Cao, hiểu được thái độ dũng cảm đối mặt hiện thực của một người cầm bút chân chính. Tác phẩm chính là minh chứng cho một quan niệm sáng tác đúng đắn của nhà văn, để "người gần người hơn". Có lẽ xuất phát từ tấm lòng ấy, tác phẩm vẫn sông mãi trong lòng bao thế hệ độc giả.