Soạn bài Người cầm quyền khôi phục uy quyền

  • Người cầm quyền khôi phục uy quyền trang 1
  • Người cầm quyền khôi phục uy quyền trang 2
  • Người cầm quyền khôi phục uy quyền trang 3
  • Người cầm quyền khôi phục uy quyền trang 4
  • Người cầm quyền khôi phục uy quyền trang 5
NGƯỜI CẦM QUYỀN KHÔI PHỤC UY QUYEN
(Trích “Những người khốn khổ”)
Vích-to Huy-gô
A. Giới thiệu
Vích-to Huy-gô (1802 - 1885) là nhà thơ, nhà tiểu thuyết, nhà soạn kịch lãng mạn nổi tiếng của Pháp.
Ông sinh ra và lớn lên sau khi Cách mạng 1789 đã thành công, song thế lực và những tàn dư của chế độ phong kiến vẫn còn. Cha ông là một tướng lĩnh cách mạng, nhưng mẹ ông lại là người mang nặng tư tưởng bảo hoàng.
Tài năng thơ của Huy-gô bộc lộ sớm từ khi còn đi học: Mười lăm tuổi, đoạt giải thưởng về thơ của Viện Hàn lâm; hai mươi tuổi, in tập thơ đầu tay. Nhưng nhà thơ trẻ của những năm tháng ấy chịu ảnh hưởng giáo dục của mẹ, cũng đứng về phía bảo hoàng, đồng thời hướng theo thần tượng Sa-tô-bri-âng (1768 - 1848) là nhà văn lãng mạn thời đó, song cũng có nhiều điểm hạn chế.
Tư tưởng Huy-gô chuyển biến mạnh mẽ cùng với các phong trào cách mạng diễn ra sôi động ở Pháp suốt thế kỉ XIX. Vài năm trước khi cuộc Cách mạng tháng Bảy năm 1830 nổ ra, ông từ bỏ tư tưởng bảo hoàng và trở thành chủ soái của dòng văn học lãng mạn tích cực với nhiều tác phẩm thơ, kịch, tiểu thuyết ra đời.
Năm 1851, ông đứng về phía nền Cộng hòa, kịch liệt chống lại sự kiện Sác-lơ Lu-i Bô-na-pác tiến hành cuộc đảo chính lên làm Hoàng đế, và bắt đầu cuộc sông lưu vong suốt mười chín năm, khi ở Bỉ, khi ở mấy hòn đảo ngoài khơi nước Anh. Đây là thời kì ^uất hiện nhiều kiệt tác của ông.
Năm 1870, khi nền Cộng hòa được khôi phục, Huy-gô trở về nước với sự đón tiếp nồng nhiệt của dân chúng. Năm 1871, Công xã Pa-ri nổ ra, tồn tại được bảy mươi hai ngày rồi bị đàn áp đẫm máu, ông dũng cảm lên tiếng bênh vực và xin ân xá cho các chiến sĩ Công xã, tuy trước đó ông không tán thành đường lối của Công xã.
Có thể nói tư tưởng của Huy-gô đã chuyển biến “từ bóng tối ra ánh sáng” như chữ dùng của ông trong “Những người khốn khổ”.
Huy-gô thành công trên nhiều thể loại, nhưng trước hết ông là một nhà thơ với hàng loạt tập thơ trải dài trong suốt cuộc đời, tiêu biểu như “Những khúc ca phương Đông" (1829), “Lá thu" (1831), “Trừng phạt" (1853), “Mặc tưởng” (1856),...
Cùng với sáng tác thơ, ông viết tiểu thuyết từ khi còn trẻ cho đến lúc về già; nhiều tác phẩm đã nổi tiếng trên toàn thế giới như “Nhà thờ Đức Bà Pari” (1831), “Những người khốn khổ” (1862),...
Trái lại, kịch lãng mạn của Huy-gô chủ yếu tập trung vào những năm ba mươi, tiêu biểu nhất là “Héc-na-ni” (1830), vở kịch đã gây sóng gió trên sân khấu thời bấy giờ.
Tiểu thuyết “Những người khốn khổ” (1862)
Cốt truyện được đặt vào thời gian mấy chục năm đầu thế kỉ XIX.
Giăng Van-giăng là người lao động nghèo khổ vì đập vỡ tủ kính lấy cắp một chiếc bánh mì để nuôi cháu mà dẫn đến mười chín năm tù khổ sai. Ra tù, nhờ sự cảm hóa của giám mục Mi-ri-en, ông trở thành người tốt sau khi phạm thêm tội cướp đồng hào của bé Giéc-ve. Ông đổi tên là Ma-đơ-len, mở nhà máy, trở nên giàu có, luôn giúp đỡ mọi người và được cử làm thị trưởng một thành phô" nhỏ.
Nhưng thanh tra mật thám dưới quyền ông vẫn nghi ngờ, rình mò, theo dõi. Phăng-tin là người phụ nữ gặp nhiều oan trái, làm việc trong xưởng máy của ông, vì có con hoang là Cô-dét mà bị mụ giárn thị sa thải, phải gửi con cho hai vợ chồng lão chủ quán lưu manh Tê-nác-đi-ê, rồi làm gái điếm để lấy tiền nuôi thân và nuôi con; chị phản ứng lại gã tư sản Ba-ma-ta-boa trêu chọc tàn nhẫn trong lúc chị đang đau ốm, liền bị Gia-ve bắt bỏ tù, may nhờ có Ma-đơ-len can thiệp mới được thoát nạn, rồi lại được Ma-đơ-len đưa vào nằm ở bệnh xá. Đang lúc Ma-đơ-len hết lòng cứu giúp Phăng-tin, ông lại quyết định ra tòa tự thú để cứu Săng-ma-chi-ơ bị bắt oan. Ông trở lại với tên thật của mình, vào tù, rồi lại vượt ngục, tìm đến chuộc bé Cô-dét đang sông khổ sở tại nhà Tê-nác-đi-ê, giữ lời hứa với Phăng-tin lúc chị qua đời. Ông đưa Cô- dét lên Pa-ri, sông lẩn trốn nhiều năm.
Một cuộc khởi nghĩa của nhân dân dựng chiến lũy chông lại chính quyền tư sản nổ ra ở Pa-ri vào tháng Sáu năm 1832 được miêu tả hết sức hào hùng với nhiều hình tượng hư cấu đẹp như chàng sinh viên Ăng-giôn-rát, cụ già Ma-bớp, chú bé Ga-vơ-rốt,... Giăng Van-giãng cũng có mặt trên chiến lũy. Ông
cứu sống Ma-ri-uýt, người yêu của Cô-dét và tha chết cho Gia-ve. Sau khi cuộc khởi nghĩa bị dập tắt, ông vun đắp cho tình yêu của Ma-ri-uýt với Cô-dét và cuối cùng chết trong cảnh cô đơn.
Đoạn trích “Người cầm quyền khôi phục uy quyền” kể sự việc Gia-ve đến bắt Giăng Van-giăng (lúc này Ma-đơ-len đã trở lại với tên thật của mình) đang đến thăm Phãng-tin trong bệnh xá.
B. Đọc - Hiểu văn bản
Hình tượng con ác thú Gia-ve
Nhà văn có dụng ý xây dựng nhân vật Gia-ve như một con thú.
Chân dung bèn ngoài
Bộ dạng, ngôn ngữ, hành động của hắn chẳng khác gì một ác thú, hệt như con hổ sắp vồ mồi.
Thoạt tiên là tiếng thét “Mau lên !”. Chỉ hai tiếng ấy đủ để cho người kể chuyện bình: “Trong cái diệu hắn nói lên hai tiếng ấy có cái gì man rợ và điên cuồng. [...] Không còn là tiếng người nói mà là tiếng thú gầm”.
Hắn vừa gầm, vừa như thôi miên con mồi, “cứ đứng lì một chỗ”, phóng vào con mồi “cặp mát nhìn như cái móc sắt" (.với cái nhìn ấy hán từng quen kéo giật vào hắn bao kẻ khốn khổ).
Sau đó hắn mới lao tới (“tiến vào giữa phòng”), ngoạm lấy cổ con mồi (“nắm lấy cổ áo...”). Hắn đắc ý, phá lên cười, nhưng là “cái cười ghê tởm phô ra tắt cả hai hàm răng”.
Chân dung bên trong
Người kể chuyện có dụng ý khắc họa “thế giới nội tâm” của con thú Gia-ve qua thái độ, cách xử sự của hắn trước người bệnh.
Chẳng quan tâm đến người bệnh nặng là Phăng-tin, hắn cứ quát tháo trong bệnh xá: “Hắn tiến vào giữa phòng và hét lên..”, “Gia-ve phá lên cười, cái cười ghê tởm...”, Giăng Van-giăng muốn nói nhỏ, nói riêng thì Gia-ve đáp “Nói to ! Nói to lên ! Ai nói với ta thì phải nói to !”, “Ta đã bảo mày nói to lên cơ mà !”...
Chẳng cần biết Phàng-tin gần đất xa trời, chỉ còn bấu víu vào cuộc sông ở chỗ tưởng rằng ông Thị trưởng đã chuộc được Cô-dét về cho chị, hắn đã tàn nhẫn nói toạc ra: “Mày nói giỡn ! Chà chà ! Tao không ngờ mày lại ngốc thế ! Mày xin tao ba ngày dể chuồn hả ! Mày bảo là để đi tìm dứa con cho con đĩ kia ! Á à ! Tốt thật ! Tốt thật đấy !”.
Nhưng còn ông Thị trưởng thì chị vẫn hi vọng sẽ được gặp con; hắn vùi dập nốt tia hi vọng ấy bằng tuyên bố thẳng thừng là ở đây chẳng còn ai là ông Thị trưởng nữa: “Tao đã bảo không có ông Ma-đơ-len, không có ông Thị trưởng nào cả. Chỉ có một tên kẻ cắp, một tên kể cướp, một tên tù khổ sai là Giăng Van-giăng ! Tao bắt được nó đây này ! Chỉ có thế thôi !”.
“Thế giới nội tâm”của con ác thú Gia-ve còn thể hiện qua thái độ, cách xử sự của hắn trước nỗi đau của tình mẫu tử. Đã là người, ai đứng trước nỗi đaư ấy chắc cũng phải mủi lòng. Gia-ve, ngược lại, vẫn lòng lim dạ đá. Trước tiếng kêu tuyệt vọng của Phăng-tin “Con tôi ! Đi tìm con tôi ! Thế ra nó chưa đến đây ! Bà xơ ơi ! Cho tôi biết con Cô-dét đâu. Tôi muốn con tôi ! Ổng Ma- đơ-len ơi ! Ông TliỊ trưởng ơi !”, “Gia-ve dậm chân" mà hét lên với Phăng-tin: “Giờ thì đến lượt con này ! Đồ khỉ, có câm họng không? Cái thứ chó đểu gì mà bọn tù khổ sai làm ông nọ ông kia, còn lũ gái điếm được chạy chữa như những bà hoàng ! Nhưng này ! Sẽ thay đổi hết; đã đến lúc rồi đấy !”.
“Thế giới nội tâm” đó còn thể hiện qua thái độ, cách xử sự của hắn trước người chết. Nếu còn một chút lương tâm của con người, đứng trước cái chết của đồng loại, chắc hắn phải có thái độ khác chứ không thể tiếp tục quát tháo, “phát khùng hét lèn”-. “Đừng có lôi thôi ! Tao không đến đây để nghe lí sự....”
Tình thương yêu của Giăng Van-giăng
Giăng Van-giăng vôn xuất thân từ thế giới của những người nghèo khổ. Ông thương yêu những người khốn khổ. Trong đoạn này, có thể thấy tình thương ấy của ông qua những gì ông dành cho Phăng-tin.
Nhà văn rất tinh tế khi chú ý để cho Giăng Van-giăng lựa chọn hành động và cả những lời lẽ khi nói với Phăng-tin và với Gia-ve, tất cả nhằm mục đích cứu vớt Phăng-tin trong lúc bệnh tình nguy kịch.
Khi Phăng-tin sợ hãi vì trông thấy Gia-ve, Giăng Van-giăng “bảo Phăng- tin bằng một giọng hét sức nhẹ nhàng và điềm tĩnli”-. “Cứ yên tâm. Không phải nó đến bắt chị đâu".
Sau đó, “ông quay lại nói với Gia-ve”: “Tôi biết là ông muốn gì rồi”. Khi Gia-ve xuất hiện, ông biết là hắn đến để bắt mình, nhưng nói thế nào đây để Phăng-tin yên tâm. Sự thể sẽ ra sao nếu thay cho câu “Tôi biết là anh muốn gì rồi” bằng câu “Tôi biết là anh đến để bắt tôi”?
Đến khi Phãng-tin đã biết rõ sự thật Gia-ve đến để bắt Giăng Van- giăng, Giăng Van-giãng cứ muốn nói nhỏ, nói riêng với Gia-ve.
+ Bị Gia-ve túm lấy cổ áo, Giăng Van- giăng vẫn nhún nhường nói “Gia-ve..”.
+ Bị Gia-ve hách dịch ngắt lời “Gọi ta là ông thanh tra”, Giăng Van- giãng lễ phép nói: “Thưa ông, tôi muốn nói riêng với ông câu này”.
+ Gia-ve quát tháo, Giăng Van-giăng “vẫn thì thầm"-. “Tôi cầu xin ông một diều [...] Nhưng điều này chỉ một mình ông nghe được thôi”; “Giăng Van- giăng ghé gần hắn và hạ giọng nói thật nhanh
Mọi lời lẽ và thái độ nhún nhường của Giăng Van-giăng trước tên thanh tra mật thám chỉ xuất phát từ một mục đích: Giăng Van-giăng không muôn
làm mất đi niềm hi vọng tha thiết cuối cùng của Phăng-tin, không muôn làm đau thêm nỗi đau của một người mẹ bất hạnh.
Điều đó càng được khẳng định thêm khi Phăng-tin tắt thở vì không chịu đựng nổi sự thật tàn nhẫn, Giăng Van-giăng không phải nhún nhường trước Gia-ve nữa, mà ngược lại, ông lạnh lùng yêu cầu “Tôi khuyên anh đừng quẩy rầy tôi lúc này”.
Giăng Van-giăng ngồi yên lặng bên giường của Phăng-tin, “trong nét mặt và dáng điệu ông chỉ thấy một nỗi thương xót khó tả”, rồi một lúc lâu sau đó, “ông mới cúi ghé lại gần và thỉ thầm bển tai Phăng-tin”. Giăng Van-giăng thì thầm gì bên tai Phăng-tin lúc chị đã chết rồi? Người kể chuyện không nói rõ, nhưng chúng ta đoán biết là ông thầm hứa với Phăng-tin sẽ tìm mọi cách cứu con Cô-dét cho chị. về sau, ông đã thực hiện được lời hứa.
Những sự chăm sóc cuối cùng của Giăng Van-giăng đối với Phăng-tin thật cảm động: “lấy hai tay nâng đầu Pliăng-tin lèn, đặt ngay ngắn giữa gối như một người mẹ sửa sang cho con. Ông thắt lại dây rút cổ áo chị, vén gọn mớ tóc vào trong chiếc mũ vải. Rồi ông vuốt mắt cho chị [...] Bàn tay Phăng- tin buông thõng ngoài giường. Giăng Van-giăng quỳ xuống trước bàn tay ấy, nhẹ nhàng nâng lên và đặt vào đấy một nụ hôn”.
Huy-gô đã viết những câu vãn tuyệt vời lãng mạn về tình người, về tình mẫu tử: “Lúc Giăng Van-giăng thì thầm bên tai Phăng-tin, [...] một nụ cười không sao tả được hiện trên đôi môi nhợt nhạt và trong đôi mắt xa xăm, đầy ngỡ ngàng của chị khi đi vào cõi chết”, “lúc ấy gương mặt Phăng-tin như sáng rỡ lên một cách lạ thường”.
c. Tổng kết
Qua một câu chuyện đầy kịch tính với những hình tượng tương phản, Huy-gô muốn gửi tới bạn đọc một thông điệp: Trong hoàn cảnh bất công và tuyệt vọng, con người chân chính vẫn có thể bằng ánh sáng của tình thương đẩy lùi bóng tối của cường quyền và nhen nhóm niềm tin vào tương lai.