Soạn bài Vịnh khoa thi hương

  • Vịnh khoa thi hương trang 1
  • Vịnh khoa thi hương trang 2
  • Vịnh khoa thi hương trang 3
  • Vịnh khoa thi hương trang 4
  • Vịnh khoa thi hương trang 5
  • Vịnh khoa thi hương trang 6
  • Vịnh khoa thi hương trang 7
  • Vịnh khoa thi hương trang 8
  • Vịnh khoa thi hương trang 9
  • Vịnh khoa thi hương trang 10
VỊNH KHOA THI HƯƠNG
Trần Tế Xương
KIẾN THỨC Cơ BẢN
Giới thiệu
“Vịnh khoa thi Hương” là bài thơ thuộc đề tài thi cử - một đề tài khá đậm nét trong thơ Tú Xương. Mười ba bài (vừa thơ, vừa phú) ở đề tài này thể hiện tâm sự đầy mỉa mai, căm uất của nhà thơ đối với chế độ thi cử và đôì với con đường khoa cử của riêng ông. Qua đề tài “thi cử”, tác giả vẽ nên một phần hiện thực xã hội nhõn nháo, ô hợp của chế độ thực dân nửa phong kiến buổi đầu, đồng thời thể hiện tâm sự của mình trước cảnh tình đất nước.
Bài thơ viết bằng chữ Nôm, theo thể thất ngôn bát cú.
Đọc - Hiểu văn bản
1. Hai câu đề mang tính chất tự sự, kể lại cuộc thi năm Đinh Dậu:
Nhà nưác ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Bề ngoài có vẻ thật bình thường: kì thi mở theo đúng thông lệ đã có từ trước “ba năm mở một khoa”. Tuy nhiên, tính chất không bình thường đã bộc lộ rõ ngay từ cách tổ chức: “Trường Nam thi lẫn với trường Hà”. Trước đây,
trường Nam (Nam Định) và trường Hà (Hà Nội) đều thi riêng. Đến khoa Đinh Dậu, hai trường thi lẫn lộn với nhau. Pháp xâm lược, các sĩ tử từ Hà Nội phải về Nam Định thi. Từ “Zẫre” - lẫn lộn tùng phèo - đã báo trước sự ô hợp, láo nháo trong thi cử.
Hai câu thực và hai câu luận gợi tả cụ thể hơn những nét điển hĩnh của khoa thi Đinh Dậu.
Ngòi bút của tác giả hướng trước hết đến hai đô'i tượng chủ yếu trong các kì thi: sĩ tử (người đi thi) và quan trường (quan coi việc thi):
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm oẹ quan trường miệng thét loa.
Hình ảnh sĩ tử hiện lên không hề mang- dáng dấp thư sinh. Họ thật luộm thuộm, vất vả và bệ rạc: “vai đeo lọ". Biện pháp đảo ngữ “lôi thôi sĩ tử' vừa nhấn mạnh vào sự luộm thuộm, không gọn gàng, vừa gây ấn tượng khái quát về hình ảnh những sĩ tử khoa thi Đinh Dậu. Họ không có tư thế người đi thi, càng không có tư thế người làm chủ trong kì thi. Hình ảnh sĩ tử trong thơ Tú Xương đã phản ánh sự sa sút về “nho phong sĩ khí” do sự nhốn nháo, ô hợp của hoàn cảnh xã hội đem lại.
Hình ảnh quan trường xuất hiện với dáng vẻ ra oai, nạt nộ. Cái oai của quan trường là cái oai cố tạo, cái oai “vờ”. Từ “ậm oẹ" biểu đạt âm thanh của tiếng nói to nhưng bị cản trong cổ họng nên trầm và nghe không rõ đã nói lên cái oai không thực chết của quan trường. Cùng với biện pháp đảo ngữ “ậm oẹ quan trường", tác giả đã làm nổi bật tính chất đặc trưng của đối tượng. Qua giọng “thét loa" của quan trường, có thể thấy được sự huyên náo, lộn xộn của cảnh trường thi khoa Đinh Dậu. Quan phải thét vì sĩ tử chẳng ai nghe. Sĩ tử không ai nghe nên quan càng phải cô' tỏ cái oai vờ nạt nộ.
Hình ảnh quan sứ và mụ đầm xuất hiện trong sự tiếp đón rất linh đình: “lọng cắm rợp trời". Cách ăn mặc của quan bà có phần diêm dúa, loè loẹt: “Váy lê quét đất mụ đầm ra”. Biện pháp đảo ngữ: “Lọng cắm rợp trời quan sứ đến - Váy lê quét đất mụ đầm ra”, thấy lọng trước, người sau, thấy váy trước, người sau, càng lộ rõ sự phô trương hình thức. Quan sứ, bà đầm xuất hiện tuy có sự tiếp đón linh đình nhưng cũng không khác gì một màn trình diễn.
Nghệ thuật đối của thơ Đường luật được vận dụng một cách triệt để, tạo nên sức mạnh đả kích dữ dội, quyết liệt, sâu cay. Tú Xương đã đem “lọng” che đầu quan sứ đô'i với “váy” bà đầm. Với cách đối trên, Tú Xương đã hạ nhục bọn thực dân xâm lược. Thật là hả hê, thú vị !
Hình ảnh sĩ tử, quan trường, sự xuất hiện của quan sứ và của cả bà đầm giữa trường thi nói lên sự thiếu tôn nghiêm và có phần lô' bịch của khoa thi Đinh Dậu.
Hai câu kết có sự chuyển hướng đột ngột về giọng điệu, cảm xúc. Sáu câu trên chủ yếu là giọng điệu mỉa mãi, châm biếm. Hai câu kết giọng điệu chủ yếu là trữ tình:
Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Nghoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.
Hai câu thơ là lời lay gọi, là sự đánh thức lương tri, lương tâm. Câu hỏi phiếm chỉ “Nhân tài đất Bắc nào ai đó" vừa để chỉ những sĩ tử trong khoa thi Đinh Dậu - nơi tụ hội của tài trí đất Bắc, vừa mang ý nghĩa khái quát: tất cả những ai tự cho mình là nhân tài đất Bắc. Tú Xương nhắc là nhắc tất cả những nhân tài đất Bắc đó, hãy “ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”. Trông cảnh nước nhà từ khoa thi Đinh Dậu để nhận ra hiện trạng đất nước và nỗi nhục mất nước. Từ “nước nhà” đặt ở cuối bài thơ đọc lên nghe dư âm tha thiết, có tác dụng thức tỉnh tinh thần dân tộc.
Bài thơ có sự kết hợp hài hoà, sâu sắc giữa bút pháp trữ tình và bút pháp trào phúng. Đúng là thơ trào phúng Tú Xương “cười ra nước mắt”. Và, trong nước mắt của thơ Tú Xương vẫn ánh lên nụ cười hóm hỉnh, sâu cay.
Tổng kết:
“Vịnh, khoa thi Hương” gợi lên hiện trạng đất nước và nỗi nhục mắt nước, đồng thời nói lên tấm lòng của Tú Xương đối với đất nước, quê hương. Bài thơ vừa mang sức mạnh châm biếm, đả kích, vừa bộc lộ tâm trạng trữ tình tha thiết.
ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề: Phân tích giá trị tạo hình và châm biếm của các từ ngữ và phép đốì ngẫu trong bài thơ “Vịnh khoa thỉ Iỉương”.
GỢIÝ
Yếu tố gây cười, châm biếm được thể hiện rõ nét qua ngòi bút châm biếm, trào lộng sắc sảo của Tú Xương.
Trong hai câu đề, từ “lần” (.Trường Nam thi lẫn với trường Hà) rất dân dã bao hàm ý phê phán sự nhố nhăng của một kì thi không bình thường.
Hai cặp câu thực và luận miêu tả quang cảnh trường thi.
a. Để miêu tả quang cảnh trường thi, tác giả đã chọn bốn đối tượng với dụng ý rõ rệt:
Sĩ tử, quan trường’, những nhân vật chính của trường thi.
Quan sứ, mụ đầm’, những nhân vật mới.
Cả bốn đối tượng này đều được miêu tả với ngòi bút châm biếm sắc sảo. Những nhân vật cũ (sĩ tử, quan trường) đã mất đi vẻ long trọng vôh có, chỉ còn những bộ dạng lôi thôi, lếch thếch. Không khí uy nghi của trường thi cũng không còn nữa.
Điểm nổi bật trong kì thi này là sự xuất hiện của các nhân vật mới. Nếu như “quan sứ' xuất hiện với “lọng cắm rạp trời” - một hình ảnh đầy vẻ thị uy làm át vía cả trường thi thì sự xuất hiện của “mụ đầm” với “váy lê quét đất” đã thể hiện đầy đủ sự nhố nhăng, vô tổ chức của kì thi này.
b. Trong hai cặp câu thực và luận, nhà tho đã sử dụng hàng loạt từ ngữ có tính tạo hình đặc sắc:
Lôi thôi / ậm ọe;
Vai đeo lọ / miệng thét loa;
Lọng cắm rợp trời / váy lê quét đất.
Đó là những cặp hình ảnh đôi ngẫu độc đáo. Cái lôi thôi, lếch thếch, nhếch nhác của sĩ tử thật phù hợp với giọng “ậm ọe” yếu ớt của quan trường. Nhưng đặc sắc nhất là cách tả ông Tây và bà đầm. Trên trời lọng cắm - dưới đất váy loe, thật là một cảnh tượng kệch cỡm, lô' bịch, không bao giờ có thể xảy ra khi nước nhà còn tự chủ, phép nước còn giữ được nghiêm. Thi cử xưa nay là việc hệ trọng của một quốc gia. Qua các cuộc thi, triều đình phong kiến tuyển dụng nhân tài phục vụ đất nước. Khi nước mất, nơi tôn nghiêm đã hóa thành nơi bát nháo. Trong.tiếng cười trào lộng của Tú Xương có sự căm uất, nghẹn ngào.
TƯ LIỆU THAM KHẢO
NỘI DUNG THƠ VĂN TRẦN TẾ XƯƠNG
Thơ Tú xương là một bức tranh nhiều vẻ, sinh động về một xã hội thực dân nửa phong kiến
Trong thơ ông có hình bóng con người và sinh hoạt của xã hội phong kiến cũ đã bị thực dân hóa, và có hình bóng những nhân vật mới, những sinh hoạt mới - sản phẩm của xã hội thực dân nửa phong kiến. Thơ Tú Xương là tiếng nói đả kích, châm biếm sâu sắc và dữ dội vào các đối tượng mà ông căm ghét.
Đả kích bọn thực dân Pháp
Đối với thực dân Pháp, tuy chưa phải là đối tượng chính để tập trung phê phán nhưng ta vẫn bắt gặp bóng dáng'những tên thực dân xuất hiện với dáng vẻ rất buồn cười. Đó là hình ảnh những ông Tây, bà đầm rất nghênh ngang lô' bịch (Vịnh khoa thi Hương năm Đinh Dậu). Với ngòi bút châm biếm sắc sảo, Tú Xương đả kích chúng không khoan nhượng, vạch trần thói gian ác, bần tiện, thủ đoạn kiếm ăn dơ bẩn cửa chúng bằng bút pháp trào phúng sâu sắc (Ông Cò).
Đối với bọn quan lại, tay sai
Đề tài này thật ra không có gì mới mẻ so với trước, nhưng cái mới ở đầy là bút pháp của Tú Xương có cá tính và mang nét cảm hứng thời sự.
Dưới ngòi bút của ông, hình ảnh bọn quan lại hiện lên rất phong phú, đa dạng. Đó là những lũ bất tài, dốt nát (Bác Củ Nhu); chúng không khác chi những tên hề (Hát bội).
Ông phê phán trò gian lận, hối lộ, bòn rút của dân, không nghĩ gì đến trách nhiệm (Đùa ông Phủ).
Ông còn vạch trần bản chất làm tay sai của những tên quan lại lúc bấy giờ (Cô hầu gửi quan lớn).
Từ đó thấy được thái độ phẫn uất của Tú Xương trước thực trạng xã hội và ông đã dùng ngòi bút của mình để lên án, phê phán những con người, những hiện tượng trái tai, gai mắt.
Nhà thơ đã dựng lại chân dung của bọn quan lại, mỗi người mỗi vẻ nhưng đều rất sắc cạnh, cụ thể. Một tên quan huyện “mình trung đâu đấy trách người trinh”, một ông Âm “chạy lăng quăng, ấm chẳng ngồi”, ông Đốc “cờ bạc ăn chơi rặt một màu”, ông Cử “sách như hũ nút, chữ như mù”, một cô Bô' “chồng chung, vạ chạ”, một chú Hàn thì “đậu lạy, quan xin”... và cả một xã hội lô' lăng, rởm đời với quý vị phu nhân, các cậu ấm tử, sư sãi... cũng được Tú Xương tái hiện, sinh động, cụ thể:
Hai cậu con con đóng vai ấm tử, lỗi bếp bồi cậu cũng như nhau;
Đôi đức bà lên mặt phu nhân, ngón đĩ thỏa bà nào cũng nhất.
Nhất tắc mộ sư mô chi cực, nay chùa này, mai chùa khác, mở lòng từ tô tượng, đúc chuông;
Nhất tắc ham chài lái chi khu, lên mành nọ xuống mành kia, che miệng thế đong dầu rót mật.
(Khai lí lịch)
Đối với khoa cử, Nho học
Trong bức tranh xã hội của Tú Xương còn có những Nho sĩ đi thi, những ông nghè, ông công; có hình ảnh của trường thi, của một nền Nho học đang xuống dốc trầm trọng. Thời Tú Xương không còn tìm thấy hình ảnh uy nghi, trang trọng của một trường thi chữ Hán xưa kia nữa mà nó đang lùi dần trước uy thế của kẻ thù.
Ông phản ánh thực trạng Nho học suy đồi bằng tiếng thở dài ảo não (Than đạo học). Ông còn chế giễu những người kéo nhau đi thi ở những trường lớp mới mồ của thực dân (Đổi thi).
Trong buổi lễ xướng danh khoa Đinh Dậu, nhà thơ đã vẽ ra trước mắt người đọc bức tranh về cảnh trường thi, cảnh ngao ngán của sĩ tử trước thực trạng nước mất, nhà tan, sĩ khí tiêu điều, bút lông hết được săn đón “Vứt bút lông đi nắm bút chì”. Đó là hình ảnh:
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.
Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,
Váy lê quét đất mụ đầm ra.
Cái tàn tạ của Nho học sau này được Nguyễn Bính ghi lại:
Mực tàu giấy bản là đây,
Nước non đi hết những người áo xanh.
Lỡ duyên búi tóc củ hành,
Trường thi Nam Định biến thành trường bay.
Tú Xương than thở cho số phận của một ông nghè, ông cống và giễu cả những ông thông, ông phán:
Nào có ra gì cái chữ Nho,
Ổng nghè, ông cống cũng nằm co.
Sao bằng đi học làm thông, phán,
Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò.
{.Cliữ Nho)
Phê phán thế lực đồng tiền
Trước Tú Xương, nhiều tác giả Việt Nam cũng như nước ngoài đã lên án sức mạnh đồng tiền. Nó chi phối tư tưởng và hành động của con người. Đến thời Tú Xương, đồng tiền lại một lần nữa gây đảo điên xã hội, nhất là ở thành thị. Nó làm cho đạo đức suy đồi từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội.
Tú Xương đã mắng nhiếc cái xã hội hỗn loạn lên vì đồng tiền {Đất VỊ Hoàng, Vị Hoàng hoài cổ).
Có thể thây bức tranh xã hội của Tú Xương bị tha hóa đến trầm trọng. Nào là cảnh:
Ớ phô' Hàng Song thật lắm quan,
Thành thì đen kịt, Đốc thì lang.
Chồng chung vợ chạ kìa cô Bố,
Đậu lạy quan xin nọ chú Hàn.
{Phố Hàng Song)
Vì đồng tiền, con người lường gạt nhau để sôhg, đốì xử với nhau không ra gì. Tình nghĩa cha con, vợ chồng, tình yêu, tình bè bạn... đều bị chà đạp bởi thế lực của đồng tiền. Bài thơ “Mồng hai tết viếng cô Kí”, “Để vợ chơi nhãng" đã phê phán thói đời thật đáng sợ. ông chồng khóc vợ chết chỉ vì thương cái xe tay. Còn vợ đối với chồng thì “trăm năm tuổi lại trăm thằng”.
Ngòi bút Tú Xương đã khái quát bức tranh hiện thực sinh động về một xã hội lố lăng, rởm đời. Những cảnh khá nực cười, những cảnh chướng tai, gai mắt cứ nhan nhản xuất hiện trong thơ Tú Xương {Năm mới, Thói đời, Chữ nho):
Khăn là bác nọ lo tày rế,
Váy lĩnh cô kia quét sạch hè.
Công đức tu hành sư có lọng,
Xu, hào xủng xoảng mán ngồi xe.
{Năm mới)
Hay cảnh nực cười khác:
Chí cha chí chát khua giày dép,
Đen thủi đen thui cũng lượt là.
Lên án những thói hư tật xấu của thời dại
Phê phán những người hành đạo mà lòng dạ xấu xa và hành vi bẩn thỉu như cảnh sư sãi vụng trộm trong chùa, sư cho vay nặng lãi, sư chứa của gian đến nỗi phải ở tù (Sư ở tù, Ông sư và mấy ả lên đồng).
Ông còn lên án thói đồng bóng, cho đồng bóng là trò mê tín giả dối không thể chịu được:
Đồng giỏi sao đồng không giúp nước,
Hay là đồng sợ súng thần cóng.
Phê phán những phong tục xa hoa, phù phiếm trong ngày Tết mà quên đi thực trạng nước mất, nhà tan (Thói đời), vạch trần những tâm lí giả dối, sáo rỗng của con người trong ngày Tết bằng lời lẽ châm biếm sắc sảo. Bài thơ “Năm mới chúc nhau" đã chế giễu độc địa và sâu sắc:
Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau,
Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.
Phen này ông quyết đi buôn cối,
Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu.
Nó lại chúc nhau cái sự sang,
Đứa thời mua tước, đứa mua quan.
Phen này ông quyết đi buôn lọng,
Vừa chửi vừa rao cũng đắt hàng.
Nó lại mừng nhau cái sự giàu,
Trăm ngìn vạn mớ để vào dâu?
Phen này ắt hẳn gà ăn bạc,
Đồng rụng, đồng rơi, lọ phải cầu.
Nó lại mừng nhau sự lắm con,
Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn.
Phố phường chật hẹp người đông đúc,
Bồng bế nhau lên nó ở non.
Thơ Tú Xương là tiếng nói tâm tình trĩu nặng đau xót
Nỗi đau xót về bản thân và thời cuộc
- Về bản thân:
Gánh nặng đeo đẳng nhà thơ suốt đòi là nợ lều chõng. Ban đầu hỏng thi, ông còn cười cợt, còn tự nghĩ cách để an ủi mình. Nhưng các khoa thi sau (1903, 1906) ông càng thất vọng, càng chua chát. Tú Xương ngày càng đau buồn, chán nản, tuyệt vọng và cay cú:
Học đã sôi cơm nhưng chửa chín,
Thi không ăn ớt thế mà cay.
Đến khoa thi cuối (1906), tiếng thở dài của Tú Xuơng càng ảo não và bi thiết hơn nhiều:
Bụng buồn còn biết nói năng chi,
Đệ nhất buồn là cái hỏng thi.
Một việc văn chương thôi cũng nhảm,
Trăm năm thân thế có ra gì.
{Buồn thi hỏng)
ơ đây, dù đau vì thi rớt, vì công danh không thành đạt nhưng Tú Xương vẫn ít ủy mị và luôn tỏ thái độ khôi hài, lúc nào nụ cười trào phúng cũng đến với ông. Qua những lời tự trào, tự thú, càng thấy rõ con người và tính cách Tú Xương.
Tú Xương tự khoe về sự ăn chơi của mình:
Nghiện chè, nghiện rượu, nghiện cả cao lâu,
Hay hát, hay chơi, hay nghề xuống lõng.
Quanh năm phong vận, áo hàng Tàu, khăn nhiễu tím, ô Nhật Bản xanh, Ra phố nghênh ngang, quần Tố nữ, bít tất ta, giày Gia Định bóng...
{Phú hỏng thi)
Về cảnh nghèo:
Qua thơ ông, gia cảnh nhà ông hiện lên rất bi thiết {Mùa nực mặc áo bông). Nhà thơ tùng thấm thìa cảnh chạy ăn, vay nợ, nhiều lúc ông phải gào lên:
Van nợ lắm khi trào nước mắt,
Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi.
{Than nghèo)
Trong hoàn cảnh nào, Tú Xương vẫn cười cợt, châm biếm, nói ngông. Vì nghèo quá, ông đã tính đến chuyện đi tu nhưng không phải tu vì đạo lí mà tu vì tấm áo {Nghèo), rồi nghĩ đến chuyện làm mứt rận đãi gia đình trong ngày tết, có những ý nghĩ ngông nghênh, hợm hĩnh {Mứt rận), hoặc nhiều lúc ông đâm ra chán chường tuyệt vọng:
Ngủ quách sự đời thây dứa thức,
Bên chùa chú trọc đã khua chuông.
{Đêm hè)
Vốn là con nhà trào phúng nên trong hoàn cảnh nào nhà thơ vẫn có thể cười cợt, vẫn bông đùa:
Anh em đừng tưởng tết tôi nghèo,
Tiền bạc trong kho chửa lĩnh tiêu
Đúng là nói cho vui, chứ kho đâu mà lĩnh, tiền đâu mà tiêu? Chính cái nghịch lí này đã hình thành nên tính cách của Tú Xương.
Nỗi lo lắng thầm kín của Tú Xương trước thời cuộc và vận mệnh đất nước
Tình cảm của Tú Xương đôi với nhân dân:
Đối với người nghèo như những người học trò, những người nông dân chân lấm tay bùn,... những dòng thơ của Tú Xương chứa chan tình cảm và đầy lòng ưu ái (Thề với người ăn xin, Đại hạn).
Hoặc ở một bài thơ khác, tâm trạng Tú Xương càng thể hiện rõ hơn:
I ào tiếng học nghe không rõ,
Mát mẻ nhà ai ngủ hẳn lâu.
Ông lão nhà quê tang tảng dậy,
Bảo con đem đó, chớ đem gầu...
Nỗi u hoài kín đáo của Tú Xương trước thời cuộc và vận mệnh đất nước thường triền miên, day dứt:
Nhân tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.
(Vịnh khoa thi Hương)
Nhà thơ thường thaõ thức suốt đêm dài để lặng lẽ suy tư và thấy được cái heo hút, vắng lặng của đêm trường:
Đêm sao đêm mãi tối mò mò,
Đêm. đến hao giờ mới sáng cho.
Đàn trẻ u ơ chừng muốn dậy,
Ông già thúng thắng vẫn đang ho.
Ngọn đèn rình trộm khêu còn hé,
Tiếng chó kinh người cắn vẫn to.
Hàng xóm bốn hề ai dậy chửa,
Dậy thì lên tiếng gọi nhà nho.
(Đêm dài)
Trong hoàn cảnh đó, nhà thơ vẫn còn tỉnh táo để nhận ra mình:
Kìa cái đêm nay mới gọi đêm,
Mắt giương không ngủ, bụng không thèm.
Tình này ai thẩu cho ta nhỉ,
Tâm sự năm canh một ngọn đèn.
Điểm sáng nhất, xúc động nhất trong thơ ông là ở tình này. Đó là tình cảm của ông đối với quê hương, đất nước.
Nỗi đau khi nhìn thây đất nước đổi thay mà bản thần ông thì không làm gì thay đổi thời cuộc được bày tỏ trong bài thơ “Sông lấp”:
Sông kia rày đã nên đồng,
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai.
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai,
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
Bài thơ chứng tỏ Tú Xương vẫn là người nặng tình đời và tha thiết với cuộc sống.
Mặc dù có lúc ông đâm ra bối rốì, lạc lõng, mất phương hướng trước bao biến đổi của thời cuộc:
Hỏi người chỉ thấy non xanh ngắt,
Đợi nước càng thêm tóc bạc phơ.
Đường đất xa khơi ai mách bảo?
Biết đâu mà ngóng dêh bao giờ?
(.Lạc đường)
Lòng yêu nước của Tú Xuơng còn thể hiện qua sự khâm phục của Tú Xương đối với những người có tài, có đức ra cứu đời, giúp nước:
Vá trời gặp hội mây năm vẻ,
Lấp bể ra công đất một hòn.
(Gửi cụ thủ khoa Phan)
Tuy không đủ dũng khí để đi vào cuộc cách mạng như bao nghĩa sĩ yêu nước khác nhưng ông có cảm tình nồng hậu đối với những người làm cách mạng. Hình ảnh Phan Bội Châu “vá trời, lấp bể” đã đến với Tú Xương bằng tất cả sự kính mến, khâm phục.
Triết lí sông của Tú Xương giữa thời buổi loạn li của đất nước
Triết lí sông của Tú Xương đặc biệt không gióng ai giữa thời buổi loạn li. Ông sông giả câm, giả điếc, làm ngơ trước dư luận. Sông như ông phải có kiểu cách riêng, giống như hình ảnh chú Mán ở Nam Định:
Khi để chỏm, lúc cạo đầu,
Nghêu ngao câu hát nửa tàu, nửa ta.
Chẳng đội nón chịu màu da dãi nắng,
Chẳng nhuộm răng để trắng dễ cười đời.
Chốn quyền môn luồn cúi mặc ai,
Ngoài cương tỏa thảnh thơi ai đã biết.
(Chú Mán)
Thái độ sống khác của Tú Xương có phải chăng là thái độ chống đô'i của nhà thơ trước thời cuộc? Ông không muôn hòa vào cuộc sông ngột ngạt không lối thoát này, không muôn hợp tác với cái văn minh trong thời kì nước mất, nhà tan. Giữa bao cái rối rắm mà mọi người đang tìm cách chen chân vào thì Tú Xương tách khỏi nó. Từ đó thể hiện sự yêu thích tự do, không chịu cúi luồn làm nô lệ.
Triết lí sông của Tú Xương nếu đem đặt bên cạnh triết lí sôhg của các nhà chí sĩ yêu nước là xả thân vì nước lúc bấy giờ thì triết lí sống của Tú Xương có phần nhạt nhẽo, vô vị. Nhưng nói chung, triết lí sông của ông đã phần nào phản ảnh được tâm trạng của lớp người sống trong thời buổi không đành tâm theo giặc, cũng không cầm vũ khí chông giặc.