Soạn bài Hai đứa trẻ

  • Hai đứa trẻ trang 1
  • Hai đứa trẻ trang 2
  • Hai đứa trẻ trang 3
  • Hai đứa trẻ trang 4
  • Hai đứa trẻ trang 5
  • Hai đứa trẻ trang 6
  • Hai đứa trẻ trang 7
  • Hai đứa trẻ trang 8
  • Hai đứa trẻ trang 9
  • Hai đứa trẻ trang 10
  • Hai đứa trẻ trang 11
HAI ĐỨA TRẺ
Thạch Lam
KIẾN THỨC Cơ BẢN
A. Giới thiệu
ỉ. Thạch Lam (1910 - 1942) tên thật là Nguyễn Tường Vinh (sau đổi thành
Nguyễn Tường Lân), sinh tại Hà Nội, trong một gia đình công chức gốc quan lại.
Ông là em ruột của Nhất Linh và Hoàng Đạo; cả ba người đều là thành viên của Tự lực văn đoàn.
- Thuở nhỏ, Thạch Lam sông ở quê ngoại: phô' huyện cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, sau đó theo cha chuyển sang tỉnh Thái Bình. Ông học ở Hà Nội; sau khi đỗ Tú tài phần I, Thạch Lam ra làm báo, viết văn.
Thạch Lam là người đôn hậu, điềm đạm và rất đỗi tinh tế.
Ông có quan niệm văn chương lành mạnh, tiến bộ. Thạch Lam là một trong số ít nhà văn đương thời khá tự giác về quan điểm nghệ thuật và điều đáng quý hơn là Thạch Lam có quan điểm nghệ thuật tiến bộ, lành mạnh; trong đó, ông đặc biệt khẳng định chức năng cao quý của văn chương đối với cuộc sống. Trong Lời nói đầu của “Gió đầu mùa”, Thạch Lam viết: “Đối với tôi, văn chương không phải một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay sự quèn, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực, mà chúng ta có, để vừa tô cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn". Và ở chỗ khác, ông khẳng định:“77iỉên chức của nhà văn cũng như những chức vụ cao quý khác là phải nâng đỡ những cái tốt để trong đời có nhiều công bằng, thương yểu hơn".
Những tác phẩm chính của Thạch Lam là các tập truyện ngắn: “Gió đầu mùa” (1937), “Nắng trong vườn" (1938), “Sợi tóc" (1942); truyện đài “Ngày mới” (1939); tập tiểu luận “Theo dòng" (1941); và bút kí “Hà Nội ba sáu phố phường” (1943).
Thạch Lam có biệt tài về truyện ngắn. Ông thường viết những truyện không có chuyện, chủ yếu khai thác thế giới nội tâm của nhân vật với những xúc cảm mong manh, mơ hồ trong cuộc sống thường nhật. Mỗi truyện ngắn của Thạch Lam như một bài thơ trữ tình, giọng điệu điềm đạm, nhưng chứa đựng biết bao tình cảm mến yêu chân thành và sự tinh tế, nhạy cảm của tác giả trước những biến thái của lòng người và cảnh vật. Văn Thạch Lam trong sáng, giản dị mà thâm trầm, sâu sắc.
“Hai dứa trẻ” là một trong những truyện ngắn đặc sắc nhất của Thạch Lam. Tác phẩm rút từ tập “Nắng trong vườn" (1938). Cũng như nhiều truyện ngắn khác của Thạch Lam, “Hai đứa trẻ" có sự đan cài hai yếu tố hiện thực và lãng mạn trữ tình.
Qua truyện ngắn “Hai đứa trẻ”, tác giả đã gửi gắm một cách kín đáo, nhẹ nhàng nhưng không kém phần thấm thìa tư tưởng nhân đạo đáng quý. Qua việc miêu tả cảnh ngày tàn, chợ tàn, những kiếp đời tàn, cuộc sông lam lũ, quẩn quanh nơi phố huyện, nhất là diễn biến tâm trạng của Liên và việc hai chị em đêm nào cũng phải cố thức đợi chuyến tàu đi qua, nhà văn bộc lộ tấm lòng “êm mát và sâu kín" đối với con người, đối với quê hương.
B. Đọc - Hiểu văn bản
Bức tranh đời sống nơi phố huyện
Câu chuyện mở đầu bằng những câu văn êm dịu, với những âm thanh và hình ảnh báo hiệu một ngày tàn-.
“Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều. Phương Tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây
ánh hồng như hòn than sắp tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rõ rệt trên nền trời.
Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào”.
Cái rực rỡ huy hoàng của một ngày đã qua rồi; buổi chiều tà đang xuồng.
Giờ này, chợ cũng đã tàn, cái đông vui đã mất chỉ còn lại sự trống vắng, hiu quạnh: “Chạ họp giữa phố vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”, chỉ còn lại mấy đứa trẻ con nhà nghèo cúi lom khom nhặt nhạnh bất cứ cái gì có thể dùng được của những người bán hàng để lại.
Cảnh ngày tàn, chợ tàn gợi cho người đọc “cái buồn của buổi chiều quê”.
Bên cạnh cảnh ngày tàn, chợ tàn là những kiếp người tàn
Chị Tí ban ngày mò cua, bắt tép, tối đến dọn hàng nước chè tươi, thắp một ngọn đèn dầu leo lét. Hàng vắng khách, tuy chiều nào chị cũng dọn từ chập tối cho đến đêm, nhưng “chả kiếm được bao nhiêu”.
Bác Xẩm ngồi trên manh chiếu, cái thau để trước mặt, “góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bần bật trong yên lặng. Thằng con bò ra đất, ngoài manh chiếu, nghịch nhặt những rác bẩn vùi trong cát bèn đường”.
Bà cụ Thi hơi điên lại nghiện rượu, có tiếng cười khanh khách, ghê sợ, sau khi uống một hơi cạn cút rượu ti, “cụ đi lần vào bóng tối”.
Chị em Liên phải thức để trông “một của hàng tạp hóa nhỏ xíu, mẹ Liên dọn ngay từ khỉ cả nhà bỏ Hà Nội về quê ở, vì thầy Liên mất việc”. Hàng “bán chẳng ăn thua gì”, Liên thương mấy đứa trẻ nghèo, nhưng “không có tiền dể cho chúng nó”. Cảnh Liên xếp hàng vào hòm, cách hai chị em tính tiền, niềm nuối tiếc cái thời còn ở Hà Nội nhiều khi “được đi chơi Bờ Hồ uống những cốc nước lạnh xanh đỏ", cái ý nghĩ phở bác Siêu là “một thứ quà xa xỉ” không bao giờ chị em Liên có thể mua được,... khiến chúng ta có thể hình dung ra gia cảnh khó khăn và mức sông eo hẹp của gia đình Liên. Thế mà, có lẽ dẫu sao, gia đình hai đứa trẻ cũng còn có phần khấm khá hơn gia đình chị Tí và bác xẩm, vì còn có “một gian hàng bé thuê lại của bà lão móm, ngăn ra bàng một tấm phên nứa dán giấy nhật trình".
Như vậy, từ gia đình chị Tí, gia đình bác xẩm đến bà cụ Thi và chị em Liên, mỗi người một cảnh, nhưng họ đều chung sự buồn chán, mỏi mòn,... Điều đáng nói hơn là tất cả những nhân vật bé nhỏ này đã hiện ra trong cái nhìn xót thương của Thạch Lam.
Bức tranh đầy bóng tối
Khi trời tối hẳn, cả phô' huyện tối tăm dường như chỉ thu vào ngọn đèn của chị Tí. Ngoài ngọn đèn này ra, “thứ bóng tối nhẫn nại uất ức đời thôn quê” (Thế Lữ) làm chủ tất cả. Không phải ngẫu nhiên mà trong tác phẩm, nhà văn nhắc đi, nhắc lại chi tiết ngọn đèn chị Tí tới bảy lần. Kết thúc tác phẩm, hình ảnh gây ấn tượng, day dứt cuối cùng, đi vào giấc ngủ của Liên
cũng vẫn là “chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”. Phải chăng, hình ảhh này chính là biểu tượng của những kiếp người nghèo khổ, lam lũ, sông vật vờ, leo lét, trong màn đêm của xã hội cũ?
Nhịp sống của phố huyện này cứ lặp đi, lặp lại một cách đơn điệu, quẩn quanh và tẻ nhạt
Ngày qua ngày, “chiều nào chị Tí cũng dọn hàng, từ chập tối cho đến đêm”. Tốì nào bác phở Siêu cũng nhóm lửa, gia đình bác xẩm cũng chờ khách, người nhà cụ thừa, cụ lục cũng gọi người đi đánh tổ tôm. Chị em Liên tối nào cũng tính tiền hàng, “cũng phải ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc bàng” và “ngày nào, cứ chập tối, mẹ Liền lại tạt ra thăm hàng một lần"...
Như vậy, “chừng ấy người trong bóng tối” ngày này qua ngày khác sống quẩn quanh, tù túng trong cái “Ao Đời bằng phang’ (theo cách nói của Xuân Diệu).
Tuy thế, họ vẫn hi vọng - cho dù hi vọng đó rất mơ hồ: “một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”. Chính sự mong đợi mơ hồ này dường như càng tô đậm thêm tình cảnh tội nghiệp của những nhân vật trong truyện. Họ sống đấy, nhưng đâu biết ngày mai sô' phận mình sẽ ra sao ! Một niềm xót thương da diết của Thạch Lam được thể hiện một cách kín đáo ở ngay trong cách dựng người, dựng cảnh và ngay ở cái giọng văn đều đều, chậm buồn của ông.
Tâm trạng đợi tàu và hình ảnh chuyến tàu khuya
Chị em Liên, cũng như nhiều người dân phô' huyện, đêm nào cũng cô' thức để chờ đợi chuyến tàu đi qua.
Phải chăng hai chị em chờ tàu để bán được hàng? Không, “Liên không trông mong còn ai đến mua nữa. Với lại đêm, họ chỉ mua bao diêm hay gói thuốc là cùng”. Hơn nữa, “Liên đã buồn ngủ ríu cả mắt”, nhưng cô vẫn chưa chịu ngủ. Còn “An đã nằm xuống [...] mi mắt đã sắp sửa rơi xuống”, vẫn không quên dặn chị nhớ đánh thức mình dậy khi tàu đi đến. Hai chị em cô' thức chỉ “vì muốn được nhìn chuyến, tàu, đó là hoạt dộng cuối cùng của đêm khuya”-, vì với hai đứa trẻ, con tàu đâu chỉ là con tàu. Nó là cả một thê' giới khác, “một thế giới khác hẳn đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu”. Đó là thế giới của mơ ước - một mơ ước thật mơ hồ. Nhũng người dân nơi phố huyện gửi niềm mơ ước của họ vào hình ảnh đoàn tàu. Riêng với chị em Liên, đoàn tàu còn có thêm một ý nghĩa khác nó là hình ảnh của quá khứ, của “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”.
Có lẽ chính vì vậy, chuyên tàu được Thạch Lam tập trung bút lực miêu tả một cách tỉ mỉ, kĩ lưỡng theo trình tự thời gian, qua tâm trạng chờ mong của nhân vật Liên. Dấu hiệu đầu tiên của đoàn tàu là sự xuất hiện của người gác ghi. Tiếp theo là Liên trông thấy “ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất
như ma trơi”, rồi cô nghe thấy tiếng còi xe lửa “kéo dài ra theo gió”. Sau đó, “hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi”, kèm theo “một làn khói bùng sáng trắng lên đằng xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào”. Thế rồi, “tàu rần rộ đi tới”, “các toa đèn sáng trưng”, “những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”. Cuối cùng là cảnh “tàu di vào đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt”, “cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuẩt sau rặng tre”.
Đôĩ với chị em Liên và có thể cả những người dân phố huyện, chuyên tàu đêm là biểu tượng của sự sống mạnh mẽ, sự giàu sang, rực rỡ ánh sáng. Nó đối lập với cuộc sống mỏi mòn, nghèo nàn, tối tăm và quẩn quanh của người dân phố huyện. Đối với chị em Liên, chuyên tàu đêm còn gợi nhớ về những kỉ niệm của ngày xưa sung sướng, tại đất Hà Nội, khi thầy chưa mất việc.
Phố huyện rầm rộ lên trong chốc lát rồi lại chìm sâu vào bóng đêm yên tĩnh. Và đáng nói hơn, những người dân phố’ huyện chỉ chính thức chấm dứt hoạt động khi chuyến tàu đêm đã đi qua.
Phô' huyện lại trở về phô' huyện. Hình ảnh ngọn đèn leo lét củạ chị Tí lại chập chờn trong tâm trạng thức ngủ của Liên trước khi cô ngập hẳn vào “giẩc ngủ yên tĩnh, cũng yên tĩnh như đêm ở trong phố, tịch mịch và đầy bóng tối”.
Qua việc miêu tả tâm trạng của Liên, Thạch Lam thể hiện niềm trân trọng, thương xót đô'i với những kiếp người nhỏ bé, sống trong cảnh nghèo nàn, tăm tối, buồn chán nơi phố huyện (nói rộng ra là sông ở đất nước còn đắm chìm trong đói nghèo, nô lệ đương thời). Qua tâm trạng của Liên, phải chăng Thạch Lam dường như còn muốn lay tỉnh những tâm hồn đang buồn chán, đang sông quẩn quanh, lam lũ hãy cô' vươn tới ánh sáng? Điều này có lẽ chỉ có được ở những cây bút xuất hiện từ những năm 30 của thê' kỉ trước, khi mà họ ý thức đầy đủ về “cái tôi” cá nhân, cá thể.
Như vậy, thể hiện một cách nhẹ nhàng khát vọng hướng tới cuộc sống sáng tươi của những con ngưòi bé nhỏ, bình thường, Hai đứa trẻ có một giá trị nhân bản đáng quý.
Chất lãng mạn trữ tình
Có thể nói, Hai đứa trẻ phần nào còn là một bài ca quê hương, bài ca về thiên nhiên, đất nước. Bằng sự gắn bó với đất nước và dân tộc, bằng tầm hồn nhạy cảm, tinh tế, Thạch Lam đã đưa đến cho người đọc những bức tranh quê hương gần gũi mà không kém phần thơ mộng, gợi cảm:
“Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào...”
“Trời đã bắt đầu đèm, một dèm mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát..”.
Các nhân vật trong truyện luôn gắn bó với thôn dã. Bởi thế, chỉ mới gặp “mùi âm ẩm bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn mùi cát bụi quen thuộc”, chị em Liên đã “tưởng là mùi riêng của đất, của quê hương này".
Vốn sông hoà hợp, gần gũi với thiên nhiên, nên hai đứa trẻ chú ý phát hiện tinh tế những biến thái của nó: “An và Liên lặng ngước mắt lên nhìn các vì sao để tìm sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông". Tâm hồn chúng dường như có sự giao cảm với cây cỏ quê hương: “Qua khe lá của cành bàng ngàn sao vẫn lấp lánh; một con đom đóm bám vào dưới cành lá, vùng sáng nhỏ xanh nhấp nháy rồi hoa rụng xuống vai Liên khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một. Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ, không hiểu..”. Những cảnh vặt, những chi tiết trên đây hết sức quen thuộc, thường thấy ở quanh ta. Vậy mà bằng một giọng văn dịu dàng, trầm tĩnh, dưới ngòi bút Thạch Lam, chúng đã trở nên gợi cảm biết bao! Và ta hiểu rằng, lòng yêu quê hương, đất nước của mỗi con người Việt Nam có một phần chính được bồi đắp bởi những chi tiết hết sức bình dị như thế.
Trong khi nhiều truyện ngắn ở khoảng những năm 30, 40 của thế kỉ trước thường lôi cuốh người đọc bằng cốt truyện hấp dẫn, tình tiết mới lạ, cách dẫn truyện khéo léo, có duyên, hay bút pháp phóng đại gây cười,... (ví như phần nhiều truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan) thì truyện ngắn của Thạch Lam lại làm cho người đọc yêu mến bằng chất thơ trong cuộc sống thường nhật. Mỗi truyện thường có cấu tứ chung quanh một tâm trạng, một suy tưởng âm thầm của nhân vật. Và có phần vì là truyện trữ tình, nên đằng sau các chi tiết, các nhân vật luôn ẩn hiện hình ảnh của chính tác giả - một con người tinh tế, dịu dàng, nhạy cảm trước mọi biến thái của đất trời và của lòng người, đặc biệt luôn đôn hậu, xót thương những kiếp người sông quẩn quanh, đói nghèo và tăm tối.
Tổng kết
Bàng một truyện ngắn trữ tình không có cốt truyện, Thạch Lam đã thể hiện một cách nhẹ nhàng mà thấm thìa niềm xót thương đối với những kiếp người sống cơ cực, quẩn quanh, tăm tối ở phố huyện nghèo đói trước Cách mạng. Đồng thời, ông cũng thể hiện sự trân trọng ước mong đổi đời tuy còn mơ hồ của họ.
II. ĐỀ VĂN LUYỆN TẬP
Đề 1: Viết cảm nhận của anh (chị) về tấm lòng của Thạch Lam qua truyện ngắn “Hai đứa trẻ".
BÀI VIẾT GỢl ý
Thạch Lam (1910 - 1942) là cây bút có tài nhất trong Tự lực văn đoàn. Hàng loạt những truyện ngắn của ông ghi dấu ấn của một tấm lòng nhân ái, như làn gió đầu mùa se lạnh, thấm đẫm niềm cảm thông trước những số phận bất hạnh, những cuộc đời chìm trong bóng tối. Thấp thoáng trong những câu chuyện của ông là bóng hình kỉ niệm hằn sâu trong kí ức tuổi thơ.
Tình thương đối với con người trong “Hai đứa trẻ" hình thành trên nền không gian phô' huyện nghèo đầy bóng tô'i, với những cuộc đời lầm lụi, vất vả mưu sinh. Nhưng những nhân vật được ông dành cho “chút lệ thầm kín”, yêu thương chân thành nhất vần là hai chị em Liên và An. Hơn ai hết, Thạch Lam hiểu rõ tâm trạng của những em bé không có tuổi thơ khắc khoải, đau đớn thế nào, bởi đó chính là những gì nhà văn từng trải nghiệm. Những gì ông đem đến trong câu chuyện này: Không gian đìu hiu, thời gian đi dần vào đêm khuya, đến những khoảnh khắc sông của Liên và An chờ đợi chuyến tàu cuối cùng băng qua phô' huyện... mang ý nghĩa một thông điệp: đừng bao giờ lãng quên những cuộc đời trong bóng tô'i ! Và chính ông là người đã khơi dậy những nguồn sáng lạ kì, thấm thìa vẻ đẹp bình dị và sâu sắc của con người.
Thạch Lam viết trong lời tựa “Gió đầu mùa": “Văn chương (...) là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực, mà chúng ta có, để vừa tô' cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn". Tấm lòng ấy giúp ông tạo dựng được không khí thắm đượm tình người, khai phá những vẻ đẹp rất người và nói lên những tâm tình khát vọng con người. Không gian được dựng lên bằng hồi tưởng. Mỗi một chi tiết của phô' huyện như khơi dậy bao nỗi niềm. Từ một nhịp sông chậm chạp, nặng nề, rời rạc mở đầu với “tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều”, một cảm giác lắng buồn cứ tăng dần cùng âm thanh “ếch nhái” đến “tiếng muỗi vo ve”. Sự yên tĩnh không đem lại cảm giác êm ả cho lòng người mà tiếp liền đó là những hình ảnh hiện lên qua ánh nhìn của cô bé Liên, một đôi mắt đầy bóng tối. “Cái giờ khắc của ngày tàn" cũng mở ra những cuộc đời tàn héo.
Những cuộc đời ấy thấp thoáng trong cảnh chợ vãn: “Chợ họp giữa phố đã vãn từ lâu. Người về hết và tiếng ồn ào cũng mất”, “mấy đứa trẻ con nhà nghèo ở ven chợ cúi lom khom trên mặt đất đi lại tìm tòi. Chúng nhặt nhạnh thanh nứa, thanh tre, hay bất cứ cái gì có thể dùng được của các người bán hàng để lại”. Hiện thực điển hình của phô' huyện qua những chi tiết ấy cắt nghĩa cho độ nhạy cảm của một tâm hồn không bỏ qua bất cứ một biểu hiện nhỏ nhặt nào của cuộc sông. Để rồi, ông hướng sự quan tâm của người đọc về những sô' phận cụ thể: Mẹ con chị Tí ngày đi mò cua bắt tép, tô'i dọn hàng nước, chiều nào cũng thế, theo một chu kì đều đặn “từ chập tối cho đến đêm"', một bà cụ Thi nửa điên, nửa tĩnh thoáng hiện nhưng khó quên; một gánh phở bác Siêu với chấm lửa nhỏ và vàng hiện lên từ đêm tô'i, gia đình bác xẩm,... những con nguời ấy đã tô đậm cuộc sống phô' huyện về đêm. Ánh sáng và bóng tối không phải là những ý niệm tượng trưng mà hiện hình cụ thể trong từng khung cảnh, từng mảnh đời, ẩn chứa những xung đột ngấm ngầm của cuộc sống tưởng như bình lặng. Viết về bóng tối, nhưng nhà văn hướng người đọc về ánh sáng. Ông dùng ánh sáng soi tỏ từng bí ẩn của tâm hồn con người. Ân tượng về bóng tối, ánh sáng gắn với cảm nhận của một cô bé Liên - bóng dáng người chị thân yêu của tác giả, dẫn dắt người đọc khám phá những góc khuất của tầm hồn con người phong phú và sâu sắc. Thông qua đó, nhà vàn cũng nói lên đầy đủ sự thông cảm, thương yêu đối với con - người bé - nhỏ.
Đề 2: Phân tích tâm trạng nhân vật Liên trong không gian phô huyện (“Hai đứa trẻ” - Thạch Lam).
BÀI VIẾT GỢl ý
Thạch Lam xuất hiện trên văn đàn Việt Nam 1930 - 1945 như một làn “gió đầu mùa” tinh khiết, êm nhẹ. Người đọc văn Thạch Lam cảm nhận được một tình người đằm thắm trong một giọng văn tha thiết. Cái đẹp tự lan toả, “tiềm tàng trong mọi vật bình thường” khiến cho “lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”. Thạch Lam đã khơi gợi ánh sáng cho những tâm hồn từ ngay những mảng đời chìm trong bóng tối. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” - câu chuyện về hai chị em ở phố huyện nghèo - như một bài thơ thấm đẫm tình người. Thế giới trẻ thơ gợi lại cho mỗi chúng ta những rung động êm đềm mà sâu sắc, mở ra những suy tư về thân phận con người.
Trong văn xuôi Việt Nam những năm 30 của thế kỉ XX, có lẽ khó ai tìm ra được những nét đẹp tiềm ẩn trong cái bình thường giỏi như Thạch Lam. Các nhà văn Tự lực văn đoàn - những anh em của Thạch Lam, cũng hay nói về cảnh nhà quê, người nhà quê nhưng đã tước đi vẻ hồn nhiên tươi tắn chân thực của cuộc sông ấy, thay vào đó là những cái nhìn có phần xa lạ, kẻ cả, đôi chút khinh miệt. Có lẽ, trong số’ anh em của gia đình Nguyễn Tường, Thạch Lam là người sống sâu nặng hơn cả với kí ức tuổi thơ của mình. Trong tâm tư của nhà vàn, phố huyện cẩm Giàng (Hưng Yên) và người chị tần tảo đã trở thành chuỗi kỉ niệm đẹp đẽ nhất, khiến cho ông khi viết về hình ảnh phô' huyện vẫn còn vẹn nguyên những ấn tượng sâu đậm của tuổi thơ. Hai chị em Liên và An chính là những gì Thạch Lam yêu mến, gắn bó thuở thiếu thời.
Người đọc không thể nào quên ấn tượng về một không gian phô' huyện chuyển dần vào bóng đêm. Những âm thanh của một ngày sắp tắt cùng với một phương tây cháy rực gieo vào lòng người nỗi buồn mơ hồ. Một phiên chợ chiều tàn, dăm đứa trẻ nhặt nhạnh những thứ vương vãi xung quanh chợ không chỉ đánh động tình thương của cô bé Liên đầy lòng trắc ẩn mà còn khiến chúng ta cũng bồi hồi vì những nét thân thuộc của quê hương, một “mùi riêng của đất, của quê hương này”. Tài năng của Thạch Lam đã giúp chúng ta nhận ra cái hồn quê hương dìu dịu thấm vào từng cảnh vật và những sinh hoạt ban đêm của những con người phô' huyện. Tất cả những gì nhà vàn mô tả đều hết sức bình thường trong một câu chuyện không có cốt truyện. Khung cảnh và những con người đều như hướng vào một chủ đích của nhà văn: Khắc hoạ những nét bình dị, lặng lẽ trong một không khí xã hội đang chìm trong bóng đêm dày đặc của cuộc sống quẩn quanh, không lối thoát.
Những nhân vật như mẹ con chị Tí với hàng nước, bác Siêu bán phở, gia đình bác xẩm,... đã làm nên cái đặc trưng của phố huyện, Đó là những con người đang lầm lũi trong cuộc mưu sinh, tâm trạng lúc nào cũng lo toan và nhẫn nhịn. Họ cùng chờ đợi, không phải là những người khách mà chính là đang mòn mỏi hi vọng. Những cuộc đời trong 'bóng tối ấy, cũng giống như không gian phô' huyện kia, dày đặc tăm tối nhưng vẫn loé lên ánh sáng của một thế giới khác, một thứ ánh sáng mong manh nhưng không hề lịm tắt.
Không phải ngẫu nhiên nhà văn đã miêu tả cuộc sông phô' huyện gắn với ba thời điểm nối tiếp: hoàng hôn — tô'i - khuya. Bóng tô'i càng dày đặc bao nhiêu thì khát vọng hướng về ánh sáng càng khắc khoải bấy nhiêu. Ánh đỏ rực của buổi hoàng hôn dẫu đẹp nhưng lại gieo vào lòng cô bé Liên nỗi buồn man mác vì cuộc sông của hai đứa trẻ trong một gia đình sa sút đã mang sẵn những dư vị của bóng tô'i. Đó là thời điểm bắt đầu những lo toan của thê' giới người lớn nên “bóng tối ngập đầy dần” đôi mắt Liên. Liên đã chứng kiến những con người “đi lần vào bóng tối”, “từ từ đi vào bóng đêm” và rồi từ bóng tối mênh mông lại hiện lên những bóng dời chập chờn ánh sáng ngọn đèn, bếp lửa. Ánh sáng của thực tại chỉ còn là “nguồn sáng” xa lạ của những vì sao trên trời. Là những “khe sáng”, “quầng sáng”, “hột sáng” mong manh của những con người cùng sống nơi phô' huyện nghèo. Sự sống như ẩn mình trong ánh sáng nhưng vẫn không xua tan được những ám ảnh bóng tô'i. Nó chỉ đánh thức những hoài niệm tuổi thơ. Những ngày tháng êm đềm của chị em Liên khi cảnh nhà chưa sa sút. “Vùng sáng rực và lấp lánh” của quá khứ là một tương phản để cắt nghĩa cho tâm trạng của Liên: “Đêm tối đối với Liên quen lắm, chị không sợ nó nữa”. Đó là sự chấp nhận, là thực tê' đáng buồn mà Thạch Lam đã nhận ra từ cuộc sống của hai đứa trẻ. Hoàn cảnh không cho phép hai chị em Liên - An được sông bình thường như bao đứa trẻ khác, tuổi thơ của những đứa trẻ con nhà nghèo không có ánh sáng, đang cằn cỗi dần cùng bóng tối. Phải chăng vì vậy mà cô bé Liên dễ động lòng trắc ẩn trước “mấy đứa trẻ con nhà nghèo”, còn An dù thèm nhập bọn cùng đám trẻ con chơi đùa, nhưng nhớ lời mẹ dặn nên đành ngồi im. Cảnh nghèo dễ khiến tạo ra mặc cảm, dù cho là những đứa trẻ. Thạch Lam dường như không muôn để cho những cảm giác bi kịch đè nặng lên sô' phận những con người nghèo khổ, bàng thái độ trân trọng, ông đã nâng đỡ cho các nhân vật của mình, vực dậy những khát khao đổi đời ngay trong những khoảnh khắc ánh sáng mong manh nhất: “Chừng ấy người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ”...
“Một cái gì tươi sáng hơn”, bản thân họ cũng không hề biết trước, chỉ là những trông ngóng mơ hồ. Nhà văn không thể chỉ ra “con đường sáng” cho những con người nghèo khổ ấy. Có lẽ, ông cũng không mơ hồ, ảo tưởng như những cây bút Tự lực văn đoàn khác như Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo, để mong chờ một thay đổi theo khuynh hướng cải lương, một tình thương bô' thí nửa vời, Ông cũng không trông chờ nhiều vào hoạt động của “Hội Ánh sáng” do các anh em của ông tổ chức sẽ cải thiện cuộc sống dân nghèo. Bằng trực giác và sự nhạy cảm của tâm hồn nghệ sĩ giàu yêu thương, Thạch Lam đã phát hiện những nội lực để vươn lên của con người từ chính nền cuộc sống nghèo khổ. Ông đã diễn giải sâu sắc bằng hình tượng chuyến tàu đêm ngang qua phố huyện.
Chuyến tàu ấy là hoạt động cuối cùng về đêm của phố huyện, là dịp cuối cùng để cho những người bán hàng đêm như chị em Liên mong “may ra còn có một vài người mua”. Nhưng vượt lên cuộc sông thường nhật mà nỗi thất vọng lớn hơn niềm hi vọng, là sự háo hức trông đợi chuyến tàu “mang ánh sáng của một thế giới khác đi qua” để con người không đánh mất niềm tin vào sự sông. Vì vậy, Thạch Lam đã dành những câu văn thật tinh tế để diễn tả cảm giác đợi chờ ở Liên và An. Đặc biệt, cô bé Liên đã chiếm được nhiều cảm tình ở người đọc. Không chỉ vì Liên là người chị lớn đảm đang, tay hòm chìa khoá của mẹ, vì dẫu cho cô bé Liên có tự hào về chiếc chìa klioá đeo vào chiếc dây xà tích bạc thì điều ấy chỉ làm người đọc buồn và thương cảm cho một cô bé sớm già trước tuổi. Điều mà Thạch Lam làm cho người đọc yêu mến Liên chính là khoảnh khắc ông giúp phát hiện vẻ đẹp giàu nữ tính của nhân vật: “Liên khẽ quạt cha em, vuốt lại mái tóc tơ (...) Qua kẽ lá của cành bàng, ngàn sao vẫn lấp lánh; một con đom đóm bám vào dưới mặt lá, vùng sáng nhỏ xanh nhắp nháy rồi hoa bàng rụng xuống vai Liên khe khẽ, thỉnh thoảng từng loạt một. Tâm hồn Liên yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ không hiểu”. Đây là trang văn đậm chất thơ, đem đến sự ngọt ngào của tình cảm nhà văn dành cho Liên, tạo ra cảm xúc đồng điệu ở người đọc. Một cô bé giàu mộng mơ, ắt hẳn không thể để tâm hồn ngập dần trong bóng tô'i. Đó là tiền đề để Liên có thể cảm nhận ánh sáng chuyến tàu đêm khác hẳn mọi người: “Liên lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực,vui vẻ và huyên náo. Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi qua”. Ánh sáng rực rỡ của con tàu mang hình ảnh chứa đựng khát vọng về tương lai, đánh thức sức sông mãnh liệt của tâm hồn Liên. Không phải một lần Liên đón nhận ánh sáng ấy mà đêm nào cô cũng được sông trong những giờ phút mơ tưởng này. Mơ ước lãng mạn bao giờ cũng là cơ sở của hành động. Thạch Lam đã đem đến một thông điệp giàu ý nghĩa về con người, tạo nên giá trị nhân vãn của tác phẩm: Hãy tin tưởng và trân trọng khát vọng của con người, dẫu thực tại còn đầy bóng tối như không gian phô' huyện nghèo kia, nhưng con người dù trong hoàn cảnh nào cũng vẫn hướng về ánh sáng. Cảm quan lãng mạn không cho phép nhà văn đi xa hơn, nhưng cũng giúp cho người đọc thêm yêu mến những con người nghèo khổ đầy hi vọng.
Từ tình cảm dành cho những con người bé nhỏ, Thạch Lam còn làm sông dậy những tình cảm gắn bó với quê hương, mảnh đất và con người bình dị mà thân thương. Có thể xem đó là một khía cạnh khác của tâm hồn nhân ái Thạch Lam. Ông nói về những cảm nhận của hai chị em cũng là phát hiện về mối quan hệ gắn kết giữa con người với mảnh đất. Dường như những hương vị bình thường, mùi đất, mùi chợ cũng là một phương diện của tâm hồn hai đứa trẻ, cũng là sự tha thiết, trìu mến của nhà văn hướng về vùng đất cẩm Giàng từng lưu dấu tuổi thơ. Những chi tiết bình thường nhất nơi phô' huyện còn lan toả cảm giác â'm áp ân tình của Thạch Lam đến tận bây giờ. Bóng tối mênh mông là miền đời không thể lãng quên và không được phép lãng quên, bởi ở đó có những con người mà nhà văn thương mến nhất.
Huyền Kiêu, một người bạn của Thạch Lam đã rất có lí khi cho rằng “Tliạch Lam là một người Việt Nam thành thực nhất”, có lẽ bởi nhà văn đã yêu cuộc sống và những con người nghèo khổ qua những trang vãn thấm đượm tình người, những trang văn “rất nhiều Thạch Lam trong đó”. Độ chân cảm từ những trang vãn Thạch Lam sẽ còn làm cho nhiều thế hệ người đọc còn bồi hồi, xúc động.