Bài số 11: Em hãy tả bộ ấm chén uống nước của ông hay của bố em

  • Bài số 11: Em hãy tả bộ ấm chén uống nước của ông hay của bố em trang 1
  • Bài số 11: Em hãy tả bộ ấm chén uống nước của ông hay của bố em trang 2
Bài sô 11
Em hãy tả bộ ấm chén uống nước của ông hay của bố em.
Bài làm
Bộ ấm chén đặt trên bàn nơi phòng khách là của ông nội em đế lại. ông nội là sĩ quan về him, anh em đồng đội trong sư đoàn tặng ông nhiều thứ, trong đó có bộ ấm chén pha trà.
Bộ ấm chén đó không phải là đồ cố đắt tiền mà chỉ là đồ gốm sứ gia dụng Bát Tràng. Ngày còn sống, có lần ông bảo đó là bộ "quần ẩm”, ‘'hội ấm” dùng đế tiếp khách.
. Chiếc ấm hình trái bần. toàn một màu gan gà. Lưng ấm phình ra. Nắp ấm có núm xinh xắn. Chiếc vòi chĩa ra từ bụng ấm, bầu bĩnh như một con chim non trong tổ ló đau ra. Âm được đặt trên một chiếc đĩa mầu rất khéo. Bốn chiếc chén bàng quả hông ngâm đặt trong một cái đĩa tròn to có thành cao độ 2 - 3 xăng-ti-mét.
Cả bốn mẹ con em đều uống nước lọc đun sôi để nguội mà anh Việt gọi là “thanh thuỷ”. Chỉ có ông và bố mới uống trà. Khi ông còn sống, lúc nào mẹ cũng chuẩn bị sẵn cho ông một phích nước sôi. Ông uống trà vào sáng sớm và sau bữa cơm trưa. Ông thết khách bàng thứ chè lạng Thái Nguyên loại 1. ông thường tự pha lấy hoặc bố em pha trà cho ông. Anh Việt được ông cho rứa ấm chén hang ngày.
Sau ngày ông qua đời. bố em vẫn pha trà bằng bộ ấm chén áy. Anh Việt lên Hà Nội học Đại học, em vào học lớp Bốn, mẹ mó'i phân công cho em lau bàn ghế, rửa ấm chén. Mẹ dặn đi dặn lại: "Con phải làm cẩn thận kẻo vỡ mất bộ ấm chén của ông nội. Nó là ki vật. quý lắm đấy!’’. Em rất thích công việc này. Em cũng học được cách pha trà của anh Việt, nhưng bố chưa cho làm. Bao giờ học lớp Sáu, bố mó'i cho pha trà đãi khách.
Cứ mỗi lần lau xong bộ bản ghế phòng khách, rửa sạch bộ ấm chén đặt trang trọng lên giữa bàn, em lại như thấy hình ánh ông ngồi thảnh thơi ung dung uống trà. Bộ ấm chén đã được 12 năm, cùng tuổi với chị Vinh của em. Nó mang theo nhiều kỉ niệm sâu sắc, rất đẹp. Ông mất đã 4 năm rồi, nhưng bộ ấm trà của ông vần còn đó.
Nguyễn Ngọc Hải, 4B
Trường Tiểu học Kim Đàng - Hải Phòng